'first'
This commit is contained in:
commit
38ef519534
|
|
@ -0,0 +1,13 @@
|
|||
# ==== ĐƯỜNG DẪN ====
|
||||
DATA_RAW=./data
|
||||
|
||||
# ==== CHUNKING CƠ BẢN ====
|
||||
CHUNK_SIZE=500
|
||||
CHUNK_OVERLAP=50
|
||||
|
||||
# ==== (để sau) EMBEDDINGS & QDRANT ====
|
||||
EMBED_MODEL=Alibaba-NLP/gte-multilingual-base
|
||||
EMBED_DIM=768
|
||||
|
||||
QDRANT_URL=http://localhost:6333
|
||||
QDRANT_COLLECTION=text_chunks
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,16 @@
|
|||
{
|
||||
"version": "0.2.0",
|
||||
"configurations": [
|
||||
{
|
||||
"name": "Debug ingest_semantic (as module)",
|
||||
"type": "python",
|
||||
"request": "launch",
|
||||
"module": "src.ingest.ingest_semantic", // chạy theo module
|
||||
"cwd": "${workspaceFolder}", // thư mục gốc project
|
||||
"envFile": "${workspaceFolder}/.env", // load biến môi trường
|
||||
"env": { "PYTHONPATH": "${workspaceFolder}" }, // đảm bảo 'src' là package gốc
|
||||
"console": "integratedTerminal",
|
||||
"justMyCode": true
|
||||
}
|
||||
]
|
||||
}
|
||||
Binary file not shown.
Binary file not shown.
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
100 Hekate
|
||||
|
||||
Hekate (định danh hành tinh vi hình: 100 Hekate) là một tiểu hành tinh lớn ở vành đai chính.
|
||||
Hekate là một tiểu hành tinh kiểu S bằng đá có đường kính và chu kỳ quay quanh trục là 27,07 giờ. Quỹ đạo của nó ở cùng vùng không gian như nhóm tiểu hành tinh Hygiea, tuy nhiên hiện nay nó không xâm phạm vào vùng của nhóm này. Suất phản chiếu hình học của nó là quá cao, nên xếp nó vào nhóm tiểu hành tinh Hygiea tối tăm là một sai lầm. Nó được liệt kê là một thành viên của nhóm tiểu hành tinh Hecuba quay quanh quỹ đạo gần 2:1 cộng hưởng chuyển động trung bình so với Sao Mộc.
|
||||
Hekate là tiểu hành tinh thứ 100 do nhà thiên văn học người Mỹ gốc Canada James Craig Watson (khám phá thứ tư của ông ấy) phát hiện ngày 11 tháng 7 năm 1868 và được đặt theo tên Hecate, nữ thần phù thủy trong thần thoại Hy Lạp. Tuy nhiên tên này cũng gợi ý tới việc nó là tiểu hành tinh thứ 100 (được phát hiện), bởi chữ "hekaton" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là 100.
|
||||
Một lần tiểu hành tinh này che khuất một ngôi sao đã được quan sát thấy ngày 14 tháng 7 năm 2003 từ New Zealand.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,18 @@
|
|||
10 Hygiea
|
||||
|
||||
Hygiea (định danh hành tinh vi hình: 10 Hygiea)là tiểu hành tinh lớn thứ tư trong Hệ Mặt Trời về thể tích và khối lượng và có thể là hành tinh lùn, nó năm trong vành đai tiểu hành tinh. Với đường kính khoảng 435 km và khối lượng được ước tính là chiếm tới 3% tổng khối lượng của cả vành đai, Hygiea là tiểu hành tinh tối kiểu C với bề mặt chứa carbon lớn nhất.
|
||||
Quan sát.
|
||||
Mặc dù có kích thước lớn, Hygiea trông rất mờ khi quan sát từ Trái Đất. Điều này là do bề mặt tối cũng như khoảng cách khá xa Mặt Trời của nó ở bên ngoài vành đai chính. Vì vậy một vài tiểu hành tinh nhỏ hơn đã được phát hiện trước khi Annibale de Gasparis tìm ra nó vào ngày 12 tháng 4 năm 1849. Ở hầu hết các vị trí xung đối trên quỹ đạo, Hygiea có cấp sao biểu kiến thấp hơn bốn bậc so với Vesta và cần phải dùng kính viễn vọng ít nhất 100 mm để có thể quan sát được nó. Tuy nhiên, khi ở điểm cận nhật, Hygiea có thể được nhìn thấy qua ống nhòm 10x50. Hygiea sẽ cấp sao +9,1.
|
||||
Các nhà khoa học nghĩ rằng nó không có từ trường vì không có hoạt động Dynamo trong lõi của chính nó.
|
||||
Phát hiện và tên gọi.
|
||||
Hygiea được Annibale de Gasparis phát hiện vào ngày 12 tháng 4 năm 1849 tại Napoli,Ý, phát hiện đầu tiên trong chín tiểu hành tinh. Giám đốc đài thiên văn Napoli, Ernesto Capocci đã đặt tên cho nó là "Igea Borbonica" ("Bourbon Hygieia") theo tên của vương triều đã trị vì Vương quốc Hai Sicilia.
|
||||
Tuy nhiên vào năm 1852, John Russell Hind đã viết rằng "nó thường được gọi là "Hygeia", phần phụ không cần thiết 'Borbonica' được loại bỏ." Tên gọi này bắt nguồn từ Hygieia, vị nữ thần Hy Lạp của sức khỏe, con gái của Asclepius. Nó thường được viết là "Hygeia" vào thế kỷ mười chín, ví dụ như trong tờ "Monthly Notices of the Royal Astronomical Society".
|
||||
Đặc điểm vật lý.
|
||||
Bề mặt của Hygiea bao gồm vật chất chứa carbon cổ xưa với quang phổ tương tự như của các thiên thạch carbonaceous chondrite. Bề mặt cổ xưa này cho thấy Hygiea không bị tan chảy trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành Hệ Mặt Trời.
|
||||
Hygiea là thành viên chính của nhóm tiểu hành tinh Hygiea và chứa hầu hết khối lượng của nhóm này (hơn 90%). Nó có kích thước lớn nhất trong các tiểu hành tinh tối kiểu C, loại tiểu hành tinh chiếm đa số ở phía ngoài vành đai tiểu hành tinh. Có vẻ như Hygiea có hình cầu dẹt với đường kính trung bình 444 ± 35 km và tỷ lệ bán trục lớn 1.11, cao hơn nhiều so với 2 Pallas, 4 Vesta và hành tinh lùn Ceres. Giống như Ceres, Hygiea có tỷ trọng tương đối thấp, tương tự như các vệ tinh băng của Sao Mộc và Sao Thổ thay vì các hành tinh kiểu Trái Đất hay các tiểu hành tinh đá.
|
||||
Mặc dù là vật thể lớn nhất trong khu vực của mình, Hygiea trông rất mờ khi quan sát từ Trái Đất do bề mặt tối và khoảng cách xa Mặt Trời của nó. Thậm chí Hygiea là tiểu hành tinh mờ thứ ba trong số hai mươi tiểu hành tinh đầu tiên được phát hiện, chỉ sau 13 Egeria và 17 Thetis. Hygiea có cấp sao khoảng +10.2, thấp hơn bốn bậc so với Vesta và phải dùng kính viễn vọng ít nhất là để quan sát. Tuy nhiên, tại cận điểm quỹ đạo, Hygiea có thể đạt cấp sao +9.1 và có thể được nhìn thấy qua ống nhòm 10x50, trong khi hai tiểu hành tinh lớn thứ hai và thứ ba, 704 Interamnia và 511 Davida, lại luôn nằm ngoài khả năng quan sát của ống nhòm.
|
||||
Ít nhất 5 lần Hygiea che khuất sao đã được các nhà thiên văn học quan sát từ Trái Đất, nhưng vẫn chưa có nhiều thông tin về hình dạng của nó. Kính viễn vọng không gian Hubble đã loại bỏ khả năng tồn tại vật thể có đường kính trên 16 km cùng quỹ đạo với Hygiea.
|
||||
Quỹ đạo và sự tự quay.
|
||||
Nhìn chung, các đặc tính của Hygiea ít được biết đến nhất trong số bốn vật thể lớn của vành đai tiểu hành tinh. Quỹ đạo của nó gần với mặt phẳng hoàng đạo hơn nhiều so với Ceres, Pallas hay Interamnia, nhưng lại không tròn bằng Ceres và Vesta với độ lệch khoảng 12%.Tại viễn điểm quỹ đạo, Hygiea vươn ra tới rìa vành đai tiểu hành tinh ở cận điểm quỹ đạo của nhóm tiểu hành tinh Hilda. Hygiea được Trung tâm Tiểu hành tinh sử dụng để tính toán nhiễu loạn.
|
||||
Hygiea tự quay với tốc độ chậm một cách bất thường khi mất 27 giờ 37 phút để quay được một vòng, trong khi các tiểu hành tinh lớn thường chỉ mất từ 6 đến 12 giờ. Hướng tự quay của Hygiea vẫn chưa được xác định nhưng có khả năng là ngược chiều kim đồng hồ. Phân tích đường cong ánh sáng cho thấy điểm cực của Hygiea có khả năng hướng về tọa độ hoàng đạo (β, λ) = (30°, 115°) hoặc (30°, 300°) với khoảng chênh lệch 10°, khiến cho trục quay của nó nghiêng khoảng 60° trong cả hai trường hợp.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,23 @@
|
|||
10 vị Bồ Tát
|
||||
|
||||
10 vị Phật, Bồ Tát đã được đề cập đến trong cuốn sách Dasabodhisattuppattikatha (Cuộc đời của 10 vị Bồ Tát hay Câu chuyện về sự ra đời của 10 vị Bồ Tát) viết bằng chữ Pali. Cuốn sách này kể về 10 vị bát giới có cuộc đời sinh sống như những vị Bồ Tát. Cuốn sách này được coi như "một tác phẩm nhỏ của nền văn học Pali". Có một vài bản thể khác của cuốn sách này, nhưng chung quy tất cả đều được lấy ra từ quyển sách của nhà sư Saddhatissa. Mặc dù có một vài sự khác biệt về câu chữ nhưng chúng đề thống nhất về nội dung mà câu chuyện hướng tới. Mỗi vị Bồ Tát trong câu truyện này đều sống một cuộc sống từ bi, nhân hậu và qua đời do một số nguyên nhân mà tự họ gây ra. Mọi người đều sẽ được tái sinh 1 lần và đến cuối đạt được Phật thành một cách toàn vẹn.
|
||||
Trong Kinh Sotattakī, một trong những văn bản độc quyền của Kinh điển Pali, đoạn 87 có viết: A-nan-đà có hỏi Thích-ca Mâu-ni về những người đang tu luyện để đạt được Phật thành. Đức phật Thích-ca Mâu-ni đã trả lời:
|
||||
"Metteyyo Uttamo Rāmo, Paseno Kosalobibū, Dīghasoṇīca Caṅkīca, Subo, Todeyya Brahmano. Nāḷāgirī Pālileyyo, Bhodhisatthā imedasa anukkamena sabhodiṁ, pāpuṇissanti nāgate"
|
||||
Dịch ra nghĩa là:
|
||||
"10 người sẽ nhận được thành quả từ việc tu luyện trong tương lai là: Di-lặc, vua Uttarāma, vua Pasenadi(Ba-tư-nặc), Abhibhū, Dīghasoṇī, Caṅkī, Subha, một Bà-la-môn tên là Todeyya, voi dữ Nāḷāgirī và vị vua của voi Pālileyya. Họ sẽ trở thành những vị Bồ Tát trong tương lai"
|
||||
Di-lặc.
|
||||
Theo Anāgatavamsa, Phật Di-lặc là một đệ tử xuất gia mang tên "Ajita". Một lần, Kiều Đàm Di đã cúng dường Thích-ca Mâu-ni và các đệ tử một chiếc áo cà sa vàng. Vì không có đệ tử nào nhận lễ vật này nên Ajita nhận lễ vật. Những nhà sư khi đó cảm thấy không hài lòng và cho rằng áo cà sa chỉ dành cho Đức Phật. Để cho mọi người biết được Ajita là người tiếp nối mình. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giấu chiếc bát hành khất bằng ngọc của mình đi và bảo các đệ tử đi tìm. Nhưng chỉ có Ajita mới có thể lấy được bát của Người. Sau khi Ajita lấy được bát, Thích-ca Mâu-ni đã giải thích cho những đệ tử của mình rằng Ajita sẽ là một trong những vị Bồ Tát ở tương lai. Người cũng kể về tương lai của Di-lặc như thỉnh cầu của Xá-lợi-phất.
|
||||
Vua Uttarāma.
|
||||
Vào thời kỳ của Đức Phật Ca-diếp, vua Uttarāma là một chàng trai mang tên Nārada. Khi ông ta nhìn thấy Đức Phật, ông đã nghĩ rằng mình sinh ra là để hiến dâng tính mạng cho Đức Phật. Và rồi, ông đã tự đốt cháy cơ thể mình, như một ngọn đuốc. Sau đó, Đức Phật Ca-diếp đã báo trước rằng Nārada sẽ trở thành một vị Bồ Tát trong tương lai
|
||||
Sau khi Phật Di Lặc qua đời, mọi thứ sẽ trải qua 100.000 Sunya-Kalpas. Sau khi trải qua 100.000 Sunya-Kalpas, khi đó sẽ tiến đến Maṇḍa-Kalpa. Và lúc đó, ông ấy sẽ trở thành Phật Rāma.
|
||||
Pasenadi.
|
||||
Vua Pasenadi của Vương quốc Kosala là đệ tử của Đức phật Thích-ca Mâu-ni. Ông thường mời Người và các đệ tử đến đến cung điện của mình dùng bữa và đến Phật địa để nghe Kinh
|
||||
Trong thời kì của Phật Câu-na-hàm, ông là một người đàn ông trẻ tuổi tên là Suddha. Ông ấy đã bảo vệ một đầm sen trong hồ. Mỗi ngày, ông chỉ bán 2 bông trong đó để lấy tiền. Cảm thấy ấn tượng về việc làm của ông, Người đã báo trước cho ông rằng ông sẽ trở thành một vị Phật trong tương lai.
|
||||
Ông đã trở thành một vị Bồ Tát tên là Dhammarājā, cùng thời kì với Phật Rāma.
|
||||
Abhibhū.
|
||||
Bồ Tát Abhibhū sẽ được sinh ra vào Sārā-kalpa tiếp theo, được hình thành trong vài Sunya-Kalpas tới. Sau khi Abhibhū qua đời, thế giới sẽ tiếp tục trải qua 100.000 Sunya-Kalpas nữa.
|
||||
Dīghasoni.
|
||||
Được hình thành trong những Kalpas mới, Dīghasoni Asurin, một vị thần sẽ trở thành Bồ Tát
|
||||
Caṅkī.
|
||||
Caṅkī(hay Candanī), một bà-la-môn, sẽ trở thành một người tiếp nối Dīghasoni
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,6 @@
|
|||
10K, la década robada
|
||||
|
||||
10K, la década robada (tiếng Anh: "10K, the stolen decade") là một cuốn sách năm 2014 của Argentina được viết bởi Jorge Lanata. Tên của cuốn sách liên quan đến Kirchnerism, được những người ủng hộ nó mô tả là "the earned decade"; chữ K thường được sử dụng như một biểu tượng của phong trào chính trị.
|
||||
Nội dung.
|
||||
Lanata đã viết cuốn sách để kể chi tiết những điều mà ông đã thấy dưới chế độ của Néstor Kirchner và Cristina Fernández de Kirchner. Ông kể chi tiết những vấn đề đã bị bỏ qua trước các nhiệm kỳ tổng thống của họ, chẳng hạn như chủ nghĩa can thiệp mạnh mẽ của nhà nước trong thời kỳ Kirchner cai trị Santa Cruz. Ông cũng bình luận rằng ông không đề cập đến những nghi ngờ của mình về các cáo buộc tham nhũng đối với Mothers of the Plaza de Mayo trong vụ bê bối Schoklender vì tôn trọng sự nghiệp của họ. Ông cũng viết về Lộ trình của vụ bê bối "K-Money", và quan điểm của ông về sự phát triển đang diễn ra của vụ việc. Ông cũng nêu chi tiết về những nỗ lực của chính phủ nhằm thao túng các phương tiện truyền thông.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,5 @@
|
|||
11 Librae
|
||||
|
||||
11 Librae (hay 11 Lib) là một ngôi sao có độ lớn thứ năm trong chòm sao Thiên Bình ở phía nam của Đai Hoàng Đạo. Có thể nhìn thấy nó hơi mờ bằng mắt thường với cấp sao biểu kiến là 4,93. Ngôi sao này đang di chuyển gần Mặt trời hơn với vận tốc hướng tâm là +83,6 km/s. Dựa theo sự thay đổi thị sai hằng năm , khoảng cách đến ngôi sao này được ước tính là khoảng 219 năm ánh sáng.
|
||||
Ngôi sao này thuộc phân loại sao K0 III/IV, cho biết rằng quang phổ có các đặc điểm hỗn hợp của một sao nhóm K khổng lồ hoặc gần mức khổng lồ. Nó được phân loại là một cụm màu đỏ bởi Alves vào năm 2000 và Afşar và các đồng nghiệp vào năm 2012, cho thấy nó là một ngôi sao đã tiến hóa trên nhánh ngang và đang tạo ra năng lượng thông qua phản ứng tổng hợp heli trong vùng lõi. Nó được ước tính khoảng 5 tỷ năm tuổi và đang quay với vận tốc quay dự kiến là 4 km/s. Ngôi sao này có khối lượng gấp 1,1 lần Mặt trời và đã mở rộng ra hơn 10 lần bán kính Mặt trời. Nó đang tỏa ra khoảng 59 lần bán kính Mặt trời từ quang quyển mở rộng của nó ở nhiệt độ hiệu dụng khoảng 4.749 K.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,10 @@
|
|||
12BET
|
||||
|
||||
12BET (còn gọi là 壹贰博) là một thương hiệu cung cấp sản phẩm cược Thể thao tại nhiều quốc gia của Châu Âu và Châu Á. 12BET hiện đang xếp hạng 17 trên toàn thế giới theo bình chọn của eGaming Review Magazine trong top 50 hàng năm.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
12BET là thương hiệu được điều hành bởi công ty Pacific Sea Invests từ năm 2007. Giấy phép hoạt động được cấp bởi Cagayan Economic Zone Authority của chính phủ Philippine, thông qua tập đoàn First Cagayan Leisure & Resorts;chủ sở hữu giấy phép UK từ xa của công ty PACIFIC SEA MARKETING INTERNATIONAL LTD, một công ty thuộc British Virgin Islands, do The Gambling Commission (Anh) điều hành.
|
||||
Hoạt động tài trợ.
|
||||
12BET là thương hiệu tài trợ uy tín của nhiều giải đấu, sự kiện thể thao thế giới. Từ ngày thành lập đến nay, hoạt động tài trợ của 12BET luôn nhận được nhiều lời mời gọi từ các tổ chức, CLB bóng đá nổi tiếng.
|
||||
Giải thưởng.
|
||||
Tạp chí eGaming Review Magazine’s Power bình chọn 12BET xếp hạng 17 trong TOP các nhà điều hành Game Trực Tuyến Thế giới nhờ tỷ lệ cược cạnh tranh hấp dẫn cho các giải đấu, sự kiện Thể thao lớn-nhỏ toàn cầu.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,8 @@
|
|||
135 Hertha
|
||||
|
||||
Hertha (định danh hành tinh vi hình: 135 Hertha) là một tiểu hành tinh với đường kính khoảng 77 km ở vòng bên trong của vành đai chính.
|
||||
Ngày 18 tháng 2 năm 1874, nhà thiên văn học người Mỹ gốc Đức Christian H. F. Peters phát hiện tiểu hành tinh Hertha khi ông thực hiện quan sát tại Đài quan sát Litchfield từ Đại học Hamilton, New York và đặt tên nó theo Nerthus.
|
||||
Trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2015, các nhà quan sát đã 5 lần quan sát được 135 Hertha che khuất sao.
|
||||
Tiểu hành tinh Hertha còn là một thành viên chủ chốt của nhóm tiểu hành tinh họ Nysa (405)
|
||||
còn được gọi là nhóm tiểu hành tinh họ Herta. Tổ hợp Nysa–Polana là nhóm tiểu hành tinh lớn nhất thuộc vành đai chính với gần 20.000 thành viên.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,6 @@
|
|||
149 Medusa
|
||||
|
||||
Medusa (định danh hành tinh vi hình: 149 Medusa) là một tiểu hành tinh đầy đá, có màu sáng, ở vành đai chính. Ngày 21 tháng 9 năm 1875, nhà thiên văn học người Pháp Henri J. A. Perrotin phát hiện tiểu hành tinh Medusa khi ông thực hiện quan sát tại Đài quan sát Toulouse và đặt tên nó theo tên Medusa, một quái vật tóc rắn trong số ba chị em quái vật Gorgona trong thần thoại Hy Lạp.
|
||||
Khi được phát hiện, 149 Medusa là tiểu hành tinh nhỏ nhất được phát hiện từ trước tới nay (dù chưa được biết ở thời điểm đó). Từ đó về sau, nhiều ngàn tiểu hành tinh nhỏ hơn đã được tìm thấy. Nó cũng là tiểu hành tinh gần Mặt Trời nhất được phát hiện trong thời điểm này, phá vỡ kỷ lục lâu đời do tiểu hành tinh 8 Flora nắm giữ, và tiếp tục được coi là tiểu hành tinh gần Mặt Trời nhất cho tới khi các tiểu hành tinh 433 Eros và 434 Hungaria được phát hiện năm 1898, dẫn tới việc phát hiện ra 2 nhóm tiểu hành tinh ở phần bên trong từ 4:1 Kirkwood gap ("chỗ trống Kirkwood") tạo thành ranh giới của vành đai chính.
|
||||
Tiểu hành tinh này cũng có thời gian quay vòng hơi lâu là 26 giờ.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,8 @@
|
|||
1611
|
||||
|
||||
Năm 1611 (số La Mã: MDCXI) là một năm thường bắt đầu vào thứ bảy trong lịch Gregory (hoặc một năm thường bắt đầu vào thứ ba của lịch Julius chậm hơn 10 ngày).
|
||||
Năm 1611 là năm thành lập tỉnh Phú yên:
|
||||
Năm 1578, Chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh đưa lưu dân (những người nghèo không sản nghiệp) vào vùng đất từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả khai hoang lập ấp, chính thức mở đầu sự nghiệp khai phá xứ Đàng Trong của các chúa Nguyễn trong công cuộc Nam tiến vĩ đại.
|
||||
Năm Tân Hợi 1611, sau 33 năm xây dựng vùng đất mới, làng mạc hình thành, Chúa Nguyễn Hoàng ban chiếu thành lập phủ Phú Yên trực thuộc Thừa tuyên Quảng Nam, là đơn vị hành chính cấp tỉnh thứ 13 của Đại Việt.
|
||||
Năm 1613, trước lúc băng hà, chúa Nguyễn Hoàng trối trăng lại cho người con thứ sáu là Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên phải dựa vào vùng đất mới từ Hoành Sơn (đèo Ngang, Hà Tĩnh) đến Thạch Bi Sơn (núi Đá Bia, Phú Yên) để xây dựng cơ nghiệp muôn đời và tiếp tục mở rộng cương vực vào phía Nam.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,4 @@
|
|||
17920 Zarnecki
|
||||
|
||||
17920 Zarnecki (1999 GE9) là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện ngày 10 tháng 04 năm 1999 bởi trạm thiên văn Lowell ở trạm Anderson Mesa. Tên của nó được đặt theo giáo sư John Zarnecki (sinh 1949). Ông là người phát triển các loại thiết bị không gian để nghiên cứ về bề mặt và khí quyển của các hành tinh, vệ tinh và các vật thể nhỏà atmospheres of planets, satellites và small bodies. Ông là người thiết kế mày dò trong sứ mệnh Cassini đến Sao Thổ và vệ tinh của Sao Thổ, Titan.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,11 @@
|
|||
18 món quà
|
||||
|
||||
18 món quà ( ) là một bộ phim chính kịch Ý năm 2020 do Francesco Amato viết kịch bản và đạo diễn. Vittoria Puccini, Benedetta Porcaroli và Edoardo Leo tham gia diễn xuất các vai chính. Bộ phim dựa trên câu chuyện có thật của một người phụ nữ Ý mang tên Elisa Girotto. Elisa đã lên kế hoạch mua và chia đều quà sinh nhật 17 năm mỗi năm một lần cho con gái Anna trước khi cô qua đời vào tháng 9 năm 2017 vì căn bệnh ung thư vú giai đoạn cuối. Girotto được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vào thời điểm cô sinh con gái vào tháng 8 năm 2016 ở tuổi 40. Bộ phim được phát hành vào ngày 2 tháng 1 năm 2020 và nhận được những đánh giá tích cực về kịch bản phim đầy cảm xúc. Chồng của Elisa, Alessio Vincenzotto cũng ghi công trong phim nhờ câu chuyện về vợ mình.Bộ phim còn được phát trực tuyến trên Netflix vào ngày 8 tháng 5 năm 2020, là Ngày của mẹ ở Hoa Kỳ.
|
||||
Nội dung.
|
||||
Elisa (Vittoria Puccini thủ vai) là một người mẹ đang mang thai. Cô sinh con gái Anna (Benedetta Porcaroli) và cố gắng biến mình trở thành một phần của cuộc đời con gái bằng cách dành ra 18 món quà cho đứa con gái chuẩn bị chào đời của mình ngay sau khi cô đi khám và phát hiện ra rằng mình bị ung thư vú. Elisa làm điều này trong những ngày còn lại của cuộc đời mình, giúp cho Anna có thể nhận được một món quà sinh nhật hàng năm vào sinh nhật của cô cho đến khi tròn 18 tuổi. Elisa qua đời ngay sau khi sinh con. Về phía Anna, cô cũng cảm nhận được tình yêu thương và sự hy sinh của mẹ mình sau khi lớn lên.
|
||||
Sản xuất.
|
||||
Bộ phim bắt đầu giai đoạn quay phim chính vào năm 2019 và được sản xuất bởi Lucky Red, 3 Marys Entertainment và Rai Cinema. Trailer của phim được phát hành vào ngày 11 tháng 12 năm 2019.
|
||||
Tiếp nhận.
|
||||
Tính đến tháng 10 năm 2021, bộ phim đạt 60% đánh giá phê duyệt trên trang web phê bình phim Rotten Tomatoes, dựa trên 5 bài phê bình với điểm đánh giá trung bình là 6,2/10.
|
||||
Một trang web có tên là "Bechdel Test" đã liệt kê "18 món quà" là một trong những bộ phim hướng đến phụ nữ năm 2020.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
192 Nausikaa
|
||||
|
||||
Nausikaa (định danh hành tinh vi hình: 192 Nausikaa) là một tiểu hành tinh lớn, thuộc kiểu quang phổ S, ở vành đai chính.
|
||||
Ngày 17 tháng 2 năm 1879, nhà thiên văn học người Áo Johann Palisa phát hiện tiểu hành tinh Nausikaa khi ông thực hiện quan sát tại Đài quan sát Hải quân Áo và đặt tên nó theo tên Nausicaä, một công chúa trong sử thi Odyssey của Homer.
|
||||
Căn cứ trên dữ liệu đường cong ánh sáng của nó, năm 1985 người ta đoán là nó có một vệ tinh, tuy nhiên chưa có sự xác nhận. Một kiểu mẫu hình dạng của Nausikaa đã được dựng lên, cũng dựa vào dữ liệu đường cong ánh sáng, cho thấy nó không quá thuôn dài.
|
||||
Năm 1998, từ Hoa Kỳ, người ta đã quan sát thấy nó che khuất một ngôi sao.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,16 @@
|
|||
1. FC Slovácko
|
||||
|
||||
1. FC Slovácko là một câu lạc bộ bóng đá Séc có trụ sở ở Uherské Hradiště. Đội được thành lập năm 1927 với tên gọi SK Staré Město và vào ngày 1 tháng 7 năm 2000 có tên là 1. FC Synot, với sự hợp nhất của đội bóng gốc và "FC Slovácká Slavia Uherské Hradiště". Kể từ năm 2009 câu lạc bộ thi đấu ở Giải bóng đá vô địch quốc gia Séc. Slovácko có 2 lần vào chung kết Cúp bóng đá Séc mặc dù chưa vô địch lần nào.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
Thành lập năm 1927 với tên gọi SK Staré Město, câu lạc bộ thi đấu chủ yếu ở các hạng dưới của bóng đá Tiệp Khắc và sau này là bóng đá Séc.
|
||||
Staré Město vô địch Giải bóng đá Moravskoslezská mùa giải 1996–97 và được thăng hạng Czech 2. Liga năm 1997. Câu lạc bộ giành quyền thăng hạng từ Czech 2. Liga năm 2000 trước 5 vòng đấu. Điều này đánh dấu lần đầu tiên được thi đấu ở hạng cao nhất quốc gia. Câu lạc bộ hợp nhất với Slovácká Slavia Uherské Hradiště năm 2000, với tên gọi "1. FC Synot". Trong những mùa giải đầu tiên tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Séc, đội bóng tham dự giải châu Âu nhiều lần, với 3 lần góp mặt ở UEFA Intertoto Cup. Mùa hè năm 2004, câu lạc bộ chính thức đổi tên thành "1. FC Slovácko". Slovácko vào chung kết Cúp bóng đá Séc 2004–05, thất bại 2–1 trước nhà vô địch Baník Ostrava.
|
||||
Câu lạc bô thi đấu 7 năm ở Giải bóng đá vô địch quốc gia Séc trước khi bị xuống hạng năm 2007. Câu lạc bộ thi đấu 2 năm ở hạng hai, và được thăng hạng trở lại mặc dù xếp thứ 10 chung cuộc tại Czech 2. Liga 2008–09, khi đội bóng xếp thứ hai mùa giải đó, Čáslav, bán cho Slovácko giấy phép thi đấu ở hạng cao nhất. Cùng mùa giải đó, câu lạc bộ một lần nữa vào chung kết Cúp bóng đá Séc, và thất bại trước Teplice.
|
||||
Dự bị.
|
||||
Tính đến mùa giải 2019/20, đội dự bị của câu lạc bộ 1. FC Slovácko B thi đấu ở Giải bóng đá Moravskoslezská (cấp độ 3 trong hệ thống giải bóng đá Séc).
|
||||
Thành tích của cầu thủ tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Séc.
|
||||
Các cầu thủ tô đậm đang nằm trong đội hình hiện tại.
|
||||
Lịch sử thi đấu ở giải quốc gia.
|
||||
Cộng hòa Séc.
|
||||
Ghi chú:
|
||||
† Slovácko bị trừ 12 điểm do tham nhũng đã được chứng minh.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
1RXS J160929.1−210524
|
||||
|
||||
1RXS J160929.1-210524 là một sao tiền dải chính nằm cách xa xấp xỉ 470 năm ánh sáng trong chòm sao Thiên Hạt. Ngôi sao này được xác định là một thành viên 5 triệu năm tuổi của nhóm con "Upper Scorpius" trong "tập hợp Scorpius-Centaurus" bởi Thomas Preibisch và các đồng tác giả năm 1998.
|
||||
Hệ hành tinh.
|
||||
Ngày 8 tháng 9 2008, người ta đưa tin nhà thiên văn David Lafrenière và các cộng sự sử dụng kính thiên văn tại đài quan sát Gemini để chụp ngôi sao này và đã nhận ra một hành tinh (được định danh là "1RXS J160929.1-210524 b"), với khối lượng bằng 8 lần khối lượng của Sao Mộc, đang quay quanh ngôi sao ở một khoảng cách rất lớn, khoảng 330 lần khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời (xấp xỉ 50 tỷ km, hay 31 tỷ dặm; trong khi quỹ đạo của Pluto quanh Mặt Trời trung bình vào khoảng 5,8 tỷ km (3,6 tỷ dặm).). Đặc trưng quỹ đạo của hành tinh đồng hành đã được xác nhận trong một bài báo phát hành ngày 15 tháng 6 2010 trên tạp chí "The Astrophysical Journal". Đây là hành tinh nhỏ nhất từng được biết quay quanh một ngôi sao với một khoảng cách tin cậy, nó cũng là hành tinh đầu tiên được chụp ảnh trực tiếp đang quay quanh một ngôi sao kiểu Mặt Trời.
|
||||
Những người khám phá cũng chú ý rằng vị trí của hành tinh quá xa so với ngôi sao cũng là một thử thách lớn cho các mô hình về sự hình thành hệ hành tinh: thời gian để hình thành lên một hành tinh như vậy bởi sự bồi tụ lõi tại khoảng cách lớn so với ngôi sao có thế sẽ lâu hơn tuổi của chính hệ này. Có một khả năng là hành tinh được hình thành ở gần hơn đối với ngôi sao và sau đó nó lùi dần ra xa do kết quả của các tương tác với đĩa tiền hành tinh hoặc với hành tinh khác trong hệ. Một khả năng khác đó là hành tinh được hình thành "tại chỗ" thông qua cơ chế bất ổn định của đĩa tiền hành tinh, theo đó đĩa bị vỡ ra thành các mảnh do sự bất ổn định hấp dẫn, mặc dù điều này đòi hỏi đĩa tiền hành tinh với khối lượng không thông thường.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,4 @@
|
|||
2007 BP102
|
||||
|
||||
2007 BP102 là một centaur và damocloid có độ nghiêng cao từ các khu vực bên ngoài của Hệ Mặt Trời, đường kính khoảng 34 km. Nó được quan sát lần đầu tiên bởi các nhà thiên văn học tại Đài thiên văn Mauna Kea vào ngày 24 tháng 1 năm 2007. Với thông số 1.99 của Tisserand, nó có thể được coi là thành viên của damocloids, một nhóm các hành tinh nhỏ có quỹ đạo giống như sao chổi mà không xuất hiện đầu sao chổi hoặc đuôi. Nó quay quanh Mặt trời ở khoảng cách 17,7-30,2 AU cứ sau 117 năm và 6 tháng (42.907 ngày). Quỹ đạo của nó có độ lệch tâm 0,26 và độ nghiêng 65 ° so với đường hoàng đạo. Tính đến tháng 7 năm 2017, nó là một trong 7 vật thể được biết đến với độ nghiêng (i)> 60 ° và perihelion (q)> 15 AU, cùng với 2008 KV42 được phát hiện đầu tiên.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,8 @@
|
|||
2010 KZ39
|
||||
|
||||
là một thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương quay quanh Mặt trời như một thiên thể tách rời ở phạm vi bên ngoài của Hệ Mặt Trời. Thiên thể này được quan sát lần đầu tiên vào ngày 21 tháng 5 năm 2010 bởi các nhà thiên văn học Andrzej Udalski, Scott Sheppard, M. Szymanski và Chad Trujillo tại đài thiên văn Las Campañas ở Chile.
|
||||
Miêu tả.
|
||||
quay quanh mặt trời ở khoảng cách 42,9–47,8 AU một lần mỗi 305 năm và 3 tháng (111,504 ngày), giống như Makemake,19521 Chaos và các thiên thể khác có quỹ đạo cộng hưởng 6:11 với sao Hải Vương. Quỹ đạo của nó có độ lệch tâm 0,05 và độ nghiêng 26 ° so với đường hoàng đạo.
|
||||
Sử dụng các giá trị phù hợp nhất cho quỹ đạo của nó, dự kiến sẽ đến điểm cận nhật vào năm 2109. Nó đã được quan sát 28 lần trên 3 địa điểm và có tham số không chắc chắn là 5. Tính đến năm 2016, thiên thể này nằm ở khoảng cách 46,1 AU tính từ Mặt Trời. Loại quang phổ trên bề mặt cũng như thời gian quay của nó chưa thể xác định được.
|
||||
Brown giả định suất phản chiếu của là 0,09 và cường độ l 4,5, dẫn đến đường kính ước tính của vật thể này là 574 km.Tuy nhiên, bởi vì suất phản chiếu của chưa xác định được và có cường độ tuyệt đối ước tính là nên đường kính của nó có thể dễ dàng rơi vào khoảng 414 đến 933 km đối với suất phản chiếu giả định tương ứng là 0,25 và 0,05.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,8 @@
|
|||
212 Warrior
|
||||
|
||||
212 Warrior (tên tiếng Việt: Chiến binh 212) (còn được biến đến với tên gọi khác là Wiro Sableng 212 và Wiro Sableng Pendekar Kapak Maut Naga Geni 212) là một bộ phim hài hành động của Indonesia năm 2018 dựa trên bộ tiểu thuyết Wiro Sableng của Bastian Tito. Phim là sự hợp tác đầu tiên giữa một hãng phim của Indonesia với Fox International Productions.
|
||||
Một đoạn teaser của bộ phim đã được phát hành vào ngày 21 tháng 12 năm 2017 trên khắp các rạp chiếu phim ở Indonesia. Đoạn trailer đầu tiên được phát hành vào ngày 12 tháng 5 năm 2018 và ra mắt trên ứng dụng truyền thông LINE. Bộ phim được phát hành vào ngày 30 tháng 8 năm 2018.
|
||||
Đây là bộ phim cuối cùng của Fox International Productions trước khi đóng cửa vào năm 2017 và được xếp vào 20th Century Fox International.
|
||||
Nội dung.
|
||||
Vào thế kỷ 16 của Nusantara, Wiro Sableng (Vino G. Bastian) được người cố vấn Sinto Gendeng (Ruth Marini) giao nhiệm vụ bắt học trò cũ phản bội của cô, Mahesa Birawa (Yayan Ruhian). Được tham gia cùng với những người bạn của mình, Anggini (Sherina Munaf) & Bujang Gila Tapak Sakti (Fariz Alfarizi), Wiro sẽ không chỉ khám phá ra ý định xấu xa của Mahesa mà còn khám phá ra thiên chức thực sự của anh ta với tư cách là một anh hùng.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
220 Stephania
|
||||
|
||||
Stephania (định danh hành tinh vi hình: 220 Stephania) là một tiểu hành tinh ở vành đai chính. Nó thuộc kiểu P, nghĩa là trương đối tối và được cấu tạo bằng silicate giàu hợp chất hữu cơ, cacbon và silicate khan.
|
||||
Ngày 19 tháng 5 năm 1881, nhà thiên văn học người Áo Johann Palisa phát hiện tiểu hành tinh Stephania khi ông thực hiện quan sát ở Viên. Đây là tiểu hành tinh đầu tiên mà ông phát hiện sau khi ông thuyên chuyển từ đài thiên văn ở Pola (Croatia) tới Viên.
|
||||
Tên của tiểu hành tinh này để vinh danh công chúa Stéphanie của Bỉ, vợ của thái tử nối ngôi Rudolf của Áo. Cặp vợ chồng này kết hôn trong năm tiểu hành tinh này được phát hiện. Đây là lần đầu tiên tên một tiểu hành tinh được đặt để kỷ niệm một đám cưới và dùng như một quà cưới.
|
||||
Các dữ liệu đường cong ánh sáng của nó đã được các nhà quan sát ở đài thiên văn Antelope Hill ghi chép. Đây là đài thiên văn chính thức do Trung tâm Tiểu hành tinh chỉ định.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,4 @@
|
|||
24353 Patrickhsu
|
||||
|
||||
24353 Patrickhsu (tên chỉ định: 2000 AG104) là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi dự án Nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất Lincoln ở Socorro, New Mexico, ngày 5 tháng 1 năm 2000. Nó được đặt theo tên Patrick David Hsu, an American homeschooled student whose cellular và molecular biology project won first place ở the 2008 Giải thưởng Khoa học và Kỹ thuật Intel. He graduated from the University of California, Berkeley in 2010 và is now pursuing a PhD in Neuroscience ở Harvard University as a James Mills Peirce Graduate Fellow.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,8 @@
|
|||
24 Themis
|
||||
|
||||
Themis (định danh hành tinh vi hình: 24 Themis) là một trong những tiểu hành tinh lớn nhất trong vành đai tiểu hành tinh. Đây cũng là thành viên lớn nhất trong hệ Themis. Nó được Annibale de Gasparis phát hiện vào ngày 5 tháng 4 năm 1853. Nó được đặt theo tên của Themis, sự hiện thân của luật tự nhiên và trật tự thiêng liêng trong thần thoại Hy Lạp.
|
||||
Tránh nhầm lẫn với 269 Justitia, được đặt tên theo Justitia, tên La Mã của Themis.
|
||||
Khám phá và quan sát.
|
||||
24 Themis được phát hiện vào ngày 5 tháng 4 năm 1853 bởi Annibale de Gasparis của Napoli, mặc dù nó được đặt theo tên của nhà thiên văn học người Ý, ông Secur Secchi. Tiểu hành tinh được đặt theo tên của Themis, nữ thần luật pháp Hy Lạp. Các nhiễu loạn hấp dẫn trong quỹ đạo của Themis đã được sử dụng để tính toán khối lượng của Sao Mộc vào đầu năm 1875.
|
||||
Vào ngày 24 tháng 12 năm 1975, 24 Themis đã có cuộc chạm trán với 2296 Kugultinov với khoảng cách tối thiểu 0,016 AU (2,4 × 106 km). Bằng cách phân tích sự nhiễu loạn quỹ đạo của Kugultinov do lực hấp dẫn của Themis, khối lượng của Themis được xác định là xấp xỉ lần khối lượng mặt trời ( lần khối lượng Trái Đất). Themis là một tiểu hành tinh siêu mát.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,19 @@
|
|||
253 Mathilde
|
||||
|
||||
Mathilde (định danh hành tinh vi hình: 253 Mathilde) là một tiểu hành tinh ở vành đai tiểu hành tinh chính thuộc Hệ Mặt Trời, có đường kính khoảng 50 km. Ngày 12 tháng 11 năm 1885, nhà thiên văn học người Áo Johann Palisa đã khám phá tiểu hành tinh Mathilde khi ông thực hiện quan sát tại Đài quan sát Vienna. Mathilde có quỹ đạo elip với độ lệch tâm lớn và chu kỳ quay quanh Mặt Trời khoảng hơn bốn năm. Tiểu hành tinh này có chu kỳ tự quay quanh trục chậm bất thường, cần 17,4 ngày Trái Đất để hoàn thành một vòng 360 độ quanh trục của nó. 253 Mathilde là một tiểu hành tinh kiểu C nguyên thủy; tức là bề mặt của nó có tỷ lệ cacbon cao, tối màu và chỉ phản xạ khoảng 4% ánh sáng chiếu đến.
|
||||
Trong quá trình hình thành, Mathilde đã từng lớn dần thành một hành tinh, nhưng sau va chạm với một vật thể khác, nó đã trở thành một tiểu hành tinh như ngày nay. Nếu không có va chạm này, Mathilde được suy đoán là sẽ có kích thước trong khoảng từ cỡ của Ceres cho đến một hành tinh thực thụ (lớn hơn hành tinh lùn).
|
||||
Vào tháng 7 năm 1897, tàu vũ trụ NEAR Shoemaker bay ngang qua tiểu hành tinh này khi tàu này đang trong hành trình đến tiểu hành tinh 433 Eros. Trong quá trình bay ngang qua, con tàu đã chụp ảnh được một bên bán cầu của Mathilde; các bức ảnh cho thấy có nhiều hố va chạm lớn khoét sâu trên bề mặt. Đây là tiểu hành tinh kiểu C đầu tiên được một tàu vũ trụ khám phá; và 253 Mathilde là tiểu hành tinh lớn nhất từng được một tàu vũ trụ bay ngang qua cho đến khi 21 Lutetia được thăm dò vào năm 2010.
|
||||
Lịch sử quan sát.
|
||||
Năm 1880, Johann Palisa, giám đốc Đài quan sát Hải quân Áo , được bổ nhiệm làm trợ lý một đài quan sát mới có tên là Đài quan sát Vienna. Mặc dù công việc này thể hiện sự giáng chức đối với Johann, nhưng sự thay đổi này đã giúp ông được tiếp cận với kính viễn vọng khúc xạ mới , loại kính lớn nhất thế giới thời đó. Đến thời điểm được bổ nhiệm, Johann đã khám phá được 27 tiểu hành tinh và nhờ sử dụng các kính và ở Vienna ông tìm thêm được 94 tiểu hành tinh trước khi nghỉ hưu.
|
||||
Ông phát hiện ra 253 Mathilde vào ngày 12 tháng 11 năm 1885. Các tham số quỹ đạo ban đầu của tiểu hành tinh này được V.A Lebeuf, một nhà thiên văn học người Áo làm việc tại đài quan sát Paris, tính toán dựa theo quan sát. Tên của tiểu hành tinh được Lebeuf gợi ý đặt là Mathilde, theo tên vợ của Moritz Loewy - lúc đó là phó giám đốc đài quan sát Paris.
|
||||
Năm 1995, các quan sát ở mặt đất xác định rằng Mathilde là một tiểu hành tinh kiểu C. Người ta phát hiện chu kỳ quay quanh trục là 418 giờ, dài bất thường so với đa số các tiểu hành tinh khác.
|
||||
Vào ngày 27 tháng 6 năm 1997, tàu vũ trụ NEAR Shoemaker đã bay qua 253 Mathilde ở khoảng cách 1.212 km với tốc độ 9,93 km/s. Lần tiếp cận rất gần này cho phép tàu vũ trụ chụp được trên 500 hình ảnh bề mặt và cung cấp dữ liệu để xác định chính xác kích thước và khối lượng của tiểu hành tinh (dựa trên ảnh hưởng của sự nhiễu loại hấp dẫn do tiểu hành tinh tác động vào quỹ đạo của con tàu). Tuy nhiên, tàu NEAR chỉ chụp được một bên bán cầu của Mathilde trong thời gian bay qua. Cho đến năm 2017, đây mới là tiểu hành tinh thứ ba được chụp ảnh từ khoảng cách gần, sau 951 Gaspra và 243 Ida.
|
||||
Đặc trưng.
|
||||
Bề mặt Mathilde rất tối, có suất phản chiếu tương đương với nhựa đường và được cho là có chung thành phần với các vẫn thạch cacbon CI1 hoặc CM2 mà bề mặt được bao phủ chủ yếu bởi khoáng chất phyllosilicate. Tiểu hành tinh này có một số miệng hố va chạm rất lớn, mỗi hố va chạm được đặt tên theo các mỏ than và bồn than trên thế giới. Hai hố va chạm lớn nhất là Ishikari (29,3 km) và Karoo (33,4 km), rộng bằng bán kính trung bình của tiểu hành tinh. Từ hình ảnh chụp được ở góc cạnh khác nhau của các miệng hố va chạm, các nhà thiên văn thuộc chương trình NEAR suy đoán rằng một lượng lớn vật chất đã bị bắn ra khỏi tiểu hành tinh do những vụ va chạm này. Không có sự khác biệt về độ sáng và màu sắc được phát hiện trong các hố va chạm và không xuất hiện sự phân tầng, vì vậy cấu tạo bên trong của tiểu hành tinh phải rất đồng nhất. Có dấu hiệu cho thấy một vài sự sạt lở theo độ dốc của miệng hố va chạm.
|
||||
Khối lượng riêng của tiểu hành tinh này, do NEAR Shoemaker đo được bằng 1.300 kg/m³, nhỏ hơn một nửa so với vẫn thạch cacbon điển hình, điều này có thể chỉ ra rằng 253 Mathilde có cấu tạo khá lỏng lẻo, do các khối đá nhỏ hơn tụ tập lại dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn, chứ không được cấu tạo như một khối đá đặc chắc. Một số tiểu hành tinh kiểu C cũng có khối lượng riêng nhỏ tương tự, như 45 Eugenia, 90 Antiope, 87 Sylvia và 121 Hermione, theo các nghiên cứu bằng các kính thiên văn trên Trái Đất được trang bị các hệ thống quang học thích ứng. Tới 50% thể tích bên trong của Mathilde là lỗ rỗng. Tuy nhiên, sự tồn tại của một vách đứng dài 20 km có thể cho thấy tiểu hành tinh này có một sức bền kết cấu nhất định, vì vậy nó có thể chứa một số thành phần lớn bên trong. Mật độ thấp làm giảm thiểu tác động của các vụ va chạm với tiểu hành tinh, do các sóng xung kích của các vụ va chạm không lan truyền được hiệu quả trong môi trường mật độ thấp; điều này giúp bảo toàn tốt các đặc điểm bề mặt của Mathilde.
|
||||
Quỹ đạo của 253 Mathilde có độ lệch tâm lớn, đưa nó ra vòng ngoài cùng của vành đai chính. Tuy nhiên, quỹ đạo này nằm hoàn toàn giữa các quỹ đạo của Sao Hỏa và Sao Mộc, và nó không cắt qua quỹ đạo của hai hành tinh này. Chu kỳ quay quanh trục của Mathilde chậm nhất trong số các tiểu hành tinh được biết đến - hầu hết các tiểu hành tinh có chu kỳ quay quanh trục trong khoảng từ 2 đến 24 giờ. Do tốc độ quay chậm, NEAR Shoemaker chỉ có thể chụp được 60% bề mặt của tiểu hành tinh này. Tốc độ quay chậm có thể được giải thích bởi sự tồn tại một vệ tinh quay quanh Mathilde, nhưng việc phân tích các hình ảnh NEAR cho thấy không có vệ tinh nào có đường kính lớn hơn 10 km trong phạm vi 20 lần bán kính của 253 Mathilde.
|
||||
Tham khảo.
|
||||
& = \left ( \frac{(1 - 0,0436) (3,827 \times 10^{26}\ \mbox{W})} {0,9 (5,670 \times 10^{-8}\ \mbox{W/m}^2\mbox{K}^4) 16 \cdot 3,142 (3,959 \times 10^{11}\ \mbox{m})^2} \right )^{\frac{1}{4}} \\
|
||||
\end{align}</math>
|
||||
Xem: </ref>
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,9 @@
|
|||
2.5G
|
||||
|
||||
2.5G là bước chuyển đổi từ công nghệ truyền thông 2G sang 3G.
|
||||
Cụm từ "thế hệ di động hai rưỡi" được dùng để miêu tả hệ thống di động 2G có được trang bị hệ thống chuyển mạch gói bên cạnh hệ thống chuyển mạch kênh truyền thống.
|
||||
Trong khi các danh từ 2G và 3G được chính thức định nghĩa thì danh từ 2.5G không được như vậy. Danh từ này được chỉ dùng cho mục đích tiếp thị.
|
||||
2.5G cung cấp một số lợi ích của mạng 3G (ví dụ như chuyển mạch gói) và có thể dùng cơ sở hạ tầng đang tồn tại của 2G trong các mạng GSM và CDMA. GPRS là công nghệ dùng bởi các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông GSM. Một vài giao thức, chẳng hạn như EDGE cho GSM và CDMA2000 1x-RTT cho CDMA, có thể đạt được chất lượng như các dịch vụ 3G (bởi vì chúng có dùng một tốc độ truyền dữ liệu 144 kbit/s), nhưng vẫn được xem như là dịch vụ 2.5G (hoặc là nghe có vẻ phức tạp hơn là 2.75G) bởi vì chậm hơn vài lần so với dịch vụ 3G thực sự.
|
||||
2G là thế hệ viễn thông của hệ thống di động số. Nó chủ yếu là vận chuyển thoại, tuy nhiên cũng có thể dùng cho vận chuyển dữ liệu và tin nhắn SMS.
|
||||
3G hiện nay là thế hệ thứ ba của hệ thống điện thoại di động. Chúng cung cấp cả hai hệ thống: chuyển mạch gói và chuyển mạch kênh. Hệ thống 3G yêu cầu một mạng truy cập radio hoàn toàn khác so với hệ thống 2G hiện nay. Do nguyên nhân về giá thành và độ phức tạp, việc triển khai 3G hiện nay chậm hơn so với dự kiến.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,16 @@
|
|||
2Dark
|
||||
|
||||
2Dark là một game kinh dị phiêu lưu lén lút do studio Gloomywood phát triển và hãng Bigben Interactive phát hành vào năm 2017.
|
||||
Cốt truyện.
|
||||
Một cựu thám tử tên là Mr. Smith đi đến thị trấn Gloomywood để giải quyết một bí ẩn liên quan đến những đứa trẻ mất tích.
|
||||
Lối chơi.
|
||||
Lối chơi được thiết kế đơn giản và dễ tiếp cận với những người chơi thông thường. Người chơi có thể nhặt đồ bằng cách bước đến chỗ chúng. Lén lút sẽ đóng một vai trò lớn trong lối chơi và người chơi có thể sử dụng bóng tối để che giấu vị trí của mình. Kẻ thù có thể được cảnh báo bằng âm thanh do người chơi tạo ra. Người chơi sẽ cần giải cứu trẻ em, bởi chúng thường di chuyển chậm chạp và dễ gặp nguy hiểm.
|
||||
Phát triển.
|
||||
"2Dark" được tài trợ trên Ulule vào ngày 21 tháng 11 năm 2014.
|
||||
Ngày 26 tháng 10 năm 2015, một đoạn phim giới thiệu của "2Dark" đã được xuất bản. Hãng đã xác nhận rằng trò chơi đang được phát triển bởi một studio mới của Pháp có tên gọi là Gloomywood, ban đầu bao gồm bốn người, với sự lãnh đạo của Frédérick Raynal. Bản beta đã có sẵn để mua với giá €20.
|
||||
Trò chơi đã có buổi ra mắt tại E3 2015 và tại Hội nghị các Nhà phát triển Game 2016.
|
||||
Ngày 11 tháng 3 năm 2016, Gloomywood đã xác nhận rằng "2Dark" sẽ được phát hành trên các hệ máy console ngoài PC.
|
||||
Sau khi phát hành "2Dark"', mọi người thấy rằng trò chơi này được sự bảo vệ bằng DRM Denuvo. Trong chiến dịch Ulule, Gloomywood hứa rằng trò chơi sẽ không có DRM. Hơn nữa, điều này có nghĩa là các phiên bản Linux và Mac đã được lên kế hoạch sẽ không bao giờ được phát hành. Kể từ ngày 19 tháng 4 năm 2017, sáu ngày sau khi bị nhóm CPY bẻ khóa, Denuvo đã bị xóa khỏi "2Dark".
|
||||
Đón nhận.
|
||||
"2Dark" thu được nhiều ý kiến trái chiều và nắm giữ số điểm trung bình 56/100 trên trang web tổng hợp kết quả đánh giá Metacritic. PlayStation Universe đã trao cho game số điểm 4.0/10, nói rằng "Bối cảnh dành cho "2Dark" rất hấp dẫn, với cốt truyện nghiệt ngã và ngoại cảnh đáng sợ, nhưng rất nhiều cách nó thực sự diễn ra nhanh chóng làm giảm khía cạnh kinh dị của nó. Đáng nể như một trò chơi, thất bại như một nỗi kinh hoàng."
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
2S25 Sprut-SD
|
||||
|
||||
2S25 Sprut-SD là pháo chống tăng tự hành, được thiết kế để tiêu diệt các loại xe tăng, các khẩu đội pháo, xe bọc thép chở quân và các loại mục tiêu di động hay cố định, cũng như binh lực và vũ khí của đối phương. Nó được thiết kế dựa trên khung gầm của xe BMD-3.
|
||||
Đây là loại pháo chống tăng tự hành bánh xích, có khả năng lội nước, được trang bị pháo lớn và tổ hợp tên lửa có điều khiển phóng qua nòng, có khả năng cơ động hành trình liên tục tới 500 km mà chưa cần tiếp liệu.
|
||||
Sprut-SD có thiết kế phù hợp với các phương tiện vận chuyển đổ bộ đường không và đường biển, cho phép kíp chiến đấu không cần rời xe ngay cả khi xe thực hành đổ bộ đường không bằng dù. Hệ thống động lực mạnh mẽ giúp loại pháo tự hành này chiến đấu ổn định trên mọi loại địa hình gập ghềnh và trong điều kiện thời tiết nóng ẩm, vừa bơi vừa tác xạ với góc chỉnh tầm hướng pháo tới ±30 độ trong điều kiện biển động tới cấp 3, đồng thời lên xuống tàu đổ bộ đậu ngoài khơi hoặc đang ủi bãi.
|
||||
Xe Sprut-SD được trang bị pháo nòng trơn cỡ 125mm, nạp đạn tự động, có bộ ổn hướng 2 mặt phẳng và 1 súng máy đồng trục. Pháo chính của Sprut-SD có khả năng bắn tất cả các loại đạn pháo tăng cỡ 125mm và đạn tên lửa chống tăng điều khiển bán tự động bám chùm la-de.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,5 @@
|
|||
2S3 Akatsiya
|
||||
|
||||
SO-152 (СО-152) là một pháo lựu tự hành với cỡ nòng 152,4 ly của Liên Xô, được phát triển vào năm 1968 nhằm đối phó lại vũ khí tương tự của Mỹ là pháo tự hành M109 155mm. Việc phát triển bắt đầu với nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ra ngày 4 tháng 7 năm 1967. Trong năm 1968 SO-152 được hoàn thành xong và năm 1971 được đưa vào sử dụng. Theo cách đặt tên của Cục Tên lửa và Pháo binh thuộc Bộ quốc phòng Liên bang Nga (GRAU) nó được gọi là 2S3 (2С3). 2S3 cũng mang một tên gọi khác là "Akatsiya" (Акация).
|
||||
Loại lựu pháo tự hành này đã tham gia nhiều cuộc chiến tranh quy mô lớn từ thập niên 1980 tới nay. Ở Nga, nó được thay thế dần bởi các thế hệ lựu pháo tự hành hiện đại hơn là 2S5 Giatsint-S, 2S19 Msta và 2S35 Koalitsiya-SV.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,14 @@
|
|||
365 ngày- Nhà của em, tổ ấm của anh
|
||||
|
||||
365 ngày- Nhà của em, tổ ấm của anh (tiếng Thái: One Year 365 วัน บ้านฉัน บ้านเธอ- RTGS: One Year 365: Wan Ban Chun Ban Tur, tiếng Anh: One Year the series/One "YEAR 365 Days- My Home,Your house") là một bộ phim truyền hình Thái Lan ra mắt năm 2019, với sự hợp tác của LINE TV thuộc Line Company (Thailand) Co., Ltd, được sản xuất bởi GDH, Jor Kwang Films và BNK48.
|
||||
Phim phát sóng trên LINE TV vào thứ 5 hàng tuần từ 28/11/2019, và trên One31 lúc 22:30 thứ 6 hàng tuần từ 8/5/2020, với sự tham gia của Kathaleeya McIntosh, Sanya Kunakorn, Jirayu La-ongmanee, cùng 8 thành viên từ nhóm nhạc BNK48 gồm Cherprang Areekul (Cherprang), Plearnpichaya Komalarajun (Juné), Weeraya Zhang (Wee), Nannaphas Loetnamchoetsakun (Mewnich), Natticha Chantaravareelekha (Fond), Punsikorn Tiyakorn (Pun), Kunjiranut Intarasin (Jane), Pichayapa Natha (Namsai).
|
||||
Nội dung.
|
||||
Một bộ phim nhẹ nhàng về tình cảm gia đình kể về Mook (Kathaleeya McIntosh thủ vai), một bà mẹ đơn thân sống cùng 5 cô con gái, có tình yêu với Tum (Sanya Kunakorn thủ vai), người đàn ông góa vợ và có hai con. Họ muốn kết hôn, nhưng họ không chắc liệu con của mình có ổn với quyết định này hay không.
|
||||
Petch (Cherprang Areekul), con gái lớn của Mook, không muốn thấy mẹ mình phải hối hận vì tình yêu, trong khi đó Boom (Jirayu La-ongmanee), con trai của Tum, lại hạnh phúc khi thấy hai người có thể ở bên nhau.
|
||||
Hai gia đình sau đó đã lập một thỏa thuận để cố gắng sống chung trong vòng 1 năm. Nếu bất cứ ai trong nhà không hạnh phúc khi sống cùng nhau, Mook và Tum sẽ bỏ cuộc.
|
||||
Phân vai.
|
||||
Dưới đây là dàn diễn viên của phim:
|
||||
Khách mời
|
||||
Nhạc phim.
|
||||
Phim sử dụng 2 bài hát trong Single thứ 7 của BNK48: 77 ดินแดนแสนวิเศษ-"77 no Suteki na Machi e" làm nhạc phim:
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,24 @@
|
|||
3,7 cm Pak 36
|
||||
|
||||
Pháo chống tăng 3,7 cm Pak 36 là một pháo hạng nhẹ của Đức, được dùng trước và trong chiến tranh thế giới 2.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
Năm 1924 người Đức đã hoàn thành thiết kế, và tới năm 1928 thì chế tạo thành công một loại pháo nhỏ dùng ngựa kéo, cỡ nòng 3,7 cm, dùng chống lại xe thiết giáp (định danh là 3.7 cm Pak L/45).
|
||||
Khoảng những năm 1930, phương tiện cơ giới đã thay thế cho ngựa kéo lạc hậu, và pháo 3.7 cm Pak L/45 được thiết kế lại một số bộ phận để thích hợp với việc kéo bằng xe cơ giới (với định danh mới là 3.7 cm Pak 35/36).
|
||||
Lần đầu tiên nó được dùng là trong Nội chiến Tây Ban Nha. Sự thành công của nó khiến nó nhanh chóng trở nên nổi tiếng và được một vài quốc gia khác lấy mẫu để thiết kế các pháo của chính mình.
|
||||
Hoạt động.
|
||||
Năm 1936, trong nội chiến Tây Ban Nha, "Pak 36" chở thành một tiêu chuẩn cho pháo chống tăng hạng nhẹ. Quân Đức đã cho thấy hiệu quả của loại pháo này trong thực chiến.
|
||||
Trong năm 1940, tại chiến trường phía Tây, "Pak 36" trở nên lỗi thời. Nó không thể xuyên phá giáp của các xe tăng đời mới của Anh, Pháp. Tuy nhiên, nó vẫn rất hiệu quả đối với tăng hạng nhẹ (loại tăng chiếm tỷ lệ không nhỏ trong quân đội các nước này tại thời điểm năm 1940). Vì vậy, nó vẫn được quân đội sử dụng.
|
||||
Năm 1941, tại chiến trường phía Đông, "Pak 36" vẫn có thể chiến đấu được vì phía Liên Xô có tới hơn 21.000 xe tăng hạng nhẹ trong tổng số hơn 23.200 tăng của họ. "Pak 36" vẫn đủ sức xuyên giáp của các tăng T-26, BT, T-37/38/39/40/50 từ khoảng cách 1.000 m, hay xuyên giáp các tăng lớn hơn như T-28, T-35 ở cự ly 100 m. Dù Pak 36 không thể xuyên giáp T-34 hay KVs ở bất kỳ khoảng cách nào, nhưng số lượng tăng hạng trung và nặng loại này không nhiều (957 T-34 và 530 KVs). Từ năm 1940, một loại đạn xuyên giáp mới có lõi wolfram được sử dụng. Nó có thể xuyên phá giáp T-34 ở một vài điểm được bảo vệ kém, nhưng nói chung là "Pak 36" không còn hữu dụng nữa.
|
||||
Từ giữa 1940, trong quân đội Đức, "Pak 36" dần bị thay thế bởi pháo "5 cm Pak 38". Các nước đồng minh của Đức thì vẫn sử dụng "Pak 36" thêm một thời gian nữa.
|
||||
Lợi thế của các "Pak 36" là nó dễ di chuyển. Nó có thể được đưa đi nơi khác rất nhanh chóng bằng 2 người lính (nó nặng chỉ 432 kg). Ngoài ra thì kích thước nhỏ của nó sẽ dễ ngụy trang. Tốc độ bắn của súng cũng rất tốt.
|
||||
Vì trọng lượng nhẹ, nên "Pak 36" hay được gắn lên các xe thiết giáp hạng nhẹ hoặc xe tăng siêu nhẹ. Ví dụ như thiết giáp Renault UE Chenillette hay xe kéo T-20 Komsomolets.
|
||||
Ở chiến trường châu Á, "Pak 36" của quân đội Trung Hoa Dân Quốc cực kỳ hiệu quả trong chống thiết giáp của Nhật vì quân Nhật chủ yếu dùng các xe tăng hạng nhẹ và siêu nhẹ (như Type 95 Ha-Go hay Type 97 Te-Ke).
|
||||
Đạn.
|
||||
Đây là đạn lõi Wolfram, nhẹ hơn và có sơ tốc đầu nòng cao hơn, nhưng chỉ được sản xuất với số lượng nhỏ.
|
||||
"Khả năng xuyên giáp" là của đạn Pzgr 40 APCR với góc chạm là 30° so với phương thẳng đứng.
|
||||
Stielgranate 41.
|
||||
Năm 1943, quân Đức đưa vào sử dụng đạn Stielgranate 41 liều nổ lõm. "Pak 36" bây giờ có thể xuyên phá bất kỳ loại giáp nào (tại thời điểm 1943), mặc dù vận tốc thấp của đạn khiến nó vẫn bị giới hạn khá nhiều.
|
||||
Biến thể.
|
||||
Không có biến thể pháo binh nào của "Pak 36", nhưng một số quốc gia khác đã dựa trên "Pak 36" để thiết kế các loại pháo chống tăng của riêng mình. Ví dụ như Škoda 40 mm A17 của Hungary, hay 37 mm anti-tank gun M1930 (1-K) của Liên Xô, hoặc khẩu 37 mm M3 gun của Hoa Kỳ.
|
||||
Có một biến thể pháo tăng của "Pak 36" là 3.7 cm KwK 36. Nó được dùng chủ yếu trên xe tăng Panzer III.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
3 Are Legend
|
||||
|
||||
3 Are Legend là siêu ban nhạc dance điện tử bao gồm DJ người Bỉ gốc Hy Lạp Dimitri Vegas & Like Mike và DJ người Mỹ Steve Aoki.
|
||||
Tiểu sử và sự nghiệp.
|
||||
3 Are Legend là một siêu ban nhạc được thành lập bởi ba DJ được mô tả là những người bạn tốt của nhau. Dimitri Vegas, Like Mike và Steve Aoki thường xuyên biểu diễn tại các lễ hội và buổi hòa nhạc cùng nhau, bao gồm cả việc gây sự chú ý cho một số lễ hội âm nhạc lớn như TomorrowWorld, Tomorrowland, Creamfields và Ultra Music Festival, và điều đó đã thúc đẩy sự thành lập của nhóm. Lần xuất hiện dưới tên 3 Are Legend đầu tiên của bộ ba là trong Ultra 2014, nhưng trước đó, họ đã kết hợp cùng nhau trong nhiều năm trước đó.
|
||||
Vào ngày 26 tháng 7 năm 2019, siêu nhóm đã phát hành một ca khúc kết hợp với W&W mang tên "Khaleesi". Hai ngày sau, bộ ba buộc đóng cửa Tomorrowland lần đầu tiên và vào dịp kỷ niệm 15 năm lễ hội. Điều này xảy ra sau khi họ vô tình vướng vào một cuộc tranh cãi liên quan đến siêu nhóm Swedish House Mafia, về việc đóng cửa sự kiện nhằm hủy bỏ bất ngờ một vài ngày lưu diễn sau năm 2019 của họ.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,5 @@
|
|||
3D makeR Technologies
|
||||
|
||||
3D makeR Technologies (makeR) là nhà sản xuất máy in 3D. Dòng sản phẩm của họ bao gồm dòng máy in 3D, PEGASUS. Công ty bắt đầu như một công ty máy in mã nguồn mở. Công ty được thành lập ở khu vực giữa Barcelona và Santa Marta bởi Carlos Camargo, hiện đang là Giám đốc điều hành của công ty. Dựa theo mô hình RepRap truyền thống, các sản phẩm đầu tiên của makeR là bộ công cụ DIY với phiên bản thay thế dựa trên máy in 3D FDM mã nguồn mở Prusa i3, được gọi là Prusa Tairona. Máy in 3D makeR hiện tại được thiết kế với khung kín và kích thước tự chọn.
|
||||
Máy in 3D makeR tương thích với axit polylactic (PLA), acrylonitrile butadien styren (ABS), nhựa nhiệt dẻo polyurethane (TPU), polystyrene tác động cao (HIPS), rượu polyvinyl (PVA) và một số vật liệu đặc biệt cho nhu cầu công nghiệp, chẳng hạn như PLA sợi filament được trộn lẫn với các hạt kim loại thông qua các bộ phận in bằng nhựa chà nhám cung cấp ngoại hình tương tự như kim loại (thép, đồng và nhôm). Ngoài ra, máy in makeR còn có thể in bằng nylon và sợi carbon.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,19 @@
|
|||
3M6 Shmel
|
||||
|
||||
3M6 "Shmel" (; ) là một loại tên lửa chống tăng dẫn hướng bằng dây MCLOS của Liên Xô. "3M6" là tên của GRAU. Tên ký hiệu của NATO là AT-1 Snapper.
|
||||
Loại tên lửa chống tăng này khá lớn để người lính có thể mang vác, nó thường được trang bị cho những xe chuyên dụng hay trực thăng. Tên lửa này được dùng nhằm bổ sung cho các vũ khí chống tăng truyền thống như pháo chống tăng 100 mm có độ chính xác không quá 1500 m. Độ chính xác của tên lửa tương phản với tầm bắn tối đa 2000 m.
|
||||
Tuy nhiên với kích thước của hệ thống, tốc độ chậm và độ chính xác trong chiến đấu kém dẫn đến việc phát triển các hệ thống SACLOS sau này như AT-5 Spandrel.
|
||||
Phát triển.
|
||||
3M6 "Shmel" được phát triển bởi Phòng thiết kế súng cối đặc biệt (SKB Gladkostvolnoi artillerii) tại Kolomna, đây cũng là nơi đã phát triển loại tên lửa chống tăng AT-3 Sagger.
|
||||
Tốc độ tiến triển của quá trình phát triển tên lửa diễn ra rất nhanh, cuộc thử nghiệm đầu tiên không được dẫn hướng diễn ra vào tháng 4 năm 1958, sau đó các cuộc thử nghiệm có dẫn hướng đã diễn ra vào tháng 6 và tháng 7-1958. Vào ngày 28 tháng 8-1959, công nghệ mới đã được trưng bày cho các sĩ quan chỉ huy của lực lượng vũ trang. Vào ngày 1 tháng 8-1960, 3M6 được chấp nhận đưa vào trang bị cho quân đội. Lần xuất hiện công khai đầu tiên của loại tên lửa chống tăng này diễn ra vào năm 1963.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
Có hai loại xe chuyên dụng được thiết kế để mang tên lửa 3M6
|
||||
Những loại xe chuyên dụng này được triển khai trong khẩu đội pháo chống tăng trang bị cho các trung đoàn súng trường ô tô. Mỗi khẩu đội có 3 trung đội, mỗi trung đội có 3 xe phóng và một xe chỉ huy BRDM.
|
||||
Loại tên lửa này được quân đội Ai Cập sử dụng trong Chiến tranh 6 ngày năm 1967. Tổ hợp tên lửa chống tăng này ít được sử dụng. Xác suất ước lượng để hệ thống này bắn trúng mục tiêu trong chiến đấu là 25%.
|
||||
Bắc Triều Tiên bắt đầu sản xuất một phiên bản của tên lửa này vào năm 1975.
|
||||
Miêu tả.
|
||||
Tên lửa này được dẫn hướng đến mục tiêu bằng một cần điều khiển, điều này cần một số kĩ năng của người lính dẫn hướng. Người dẫn hướng điều chỉnh bằng cách truyền tín hiệu đến tên lửa thông qua một sợi dây mảnh phía sau của tên lửa.
|
||||
Tên lửa được lái bởi chuyển động của các tấm lái ngang bố trí độc đáo.
|
||||
MCLOS yêu cầu kĩ năng nhuần nhuyễn của người dẫn hướng. Các hệ thống tên lửa chống tăng có hiệu quả trong chiến đấu đã thúc đẩy việc phát triển của các tên lửa dựa trên việc sử dụng dễ dàng hệ thống SACLOS.
|
||||
Một vấn đề với tên lửa đó là việc thời gian để đạt được tầm bắn tối đa đến mục tiêu dự định tiêu diệt là khoảng 20 giây, do đó mục tiêu có thể tránh tên lửa hoặc bằng cách ẩn nấp sau một trướng ngại vật, dùng màn khói hay bắn vào người dẫn hướng. Ngoài ra kích thước lớn của tên lửa cũng có nghĩa là số lượng tên lửa mang trên xe phóng cũng bị hạn chế; xe BRDM-1 chỉ có thể mang 3 tên lửa.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,6 @@
|
|||
434 Hungaria
|
||||
|
||||
434 Hungaria là một tiểu hành tinh tương đối nhỏ ở phần bên trong của vành đai chính. Nó được xếp loại tiểu hành tinh kiểu E, có cường độ phản chiếu ánh sáng cao. Tên của nó được dùng để đặt cho nhóm tiểu hành tinh Hungaria, di chuyển theo quỹ đạo quanh Mặt Trời ở bên trong của 1:4 lỗ hở Kirkwood, bên ngoài lõi của vành đai chính.
|
||||
Tiểu hành tinh này do Max Wolf phát hiện ngày 11.9.1898 ở Đại học Heidelberg, và được đặt theo tên nước Hungary nước chủ nhà của một cuộc họp thiên văn học ở thành phố Budapest năm 1898.
|
||||
Người ta cho rằng có thể có mối liên quan nguồn gốc giữa tiểu hành tinh này với 3103 Eger và các thiên thạch aubrite.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,6 @@
|
|||
43 Years with the Same Bird
|
||||
|
||||
43 Years with the Same Bird là một cuốn sách năm 2008 được viết bởi Brian Reade, phóng viên của tờ Daily Mirror. Cuốn sách ghi lại sự theo dõi Liverpool FC trong suốt quãng đời của Reade.
|
||||
Cuốn sách kể câu chuyện về mối tình của Brian với Liverpool FC cùng với mối quan hệ giữa ông với anh trai và các thành viên khác trong gia đình. Cuốn sách cũng kể chi tiết về sự khởi đầu sự nghiệp báo chí của ông và giải thích cách ông đối mặt với những niềm vui và sự kiện bi thảm đi kèm với việc trở thành một cổ động viên của Liverpool trong những năm 80.
|
||||
Trong các bài đánh giá ngắn gọn, tờ Mirror gọi cuốn sách là một "bài phân tích sâu sắc và có tính giải trí tuyệt vời" và "Wales on Sunday" đã ca ngợi "cái nhìn sâu sắc tuyệt vời, được viết một cách tỉ mỉ nhưng đáng yêu." Paddy Shennan của Liverpool Echo mô tả Reade là một trong những người Anh 'sắc bén nhất và tác giả hài hước' và ca ngợi cách nhìn nhận của Reade về thảm họa Hillsborough.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
4OR
|
||||
|
||||
4OR (là từ tiếng Anh viết tắt của: A Quarterly Journal of Operations Research4OR, tiếng Việt: Tạp chí Nghiên cứu hoạt động hàng quý) là một tạp chí khoa học bình duyệt được thành lập năm 2003 và được xuất bản bởi Springer Science + Business Media. Đây là một tạp chí chính thức chính thức của Hiệp hội nghiên cứu hoạt động của Bỉ, Pháp và Ý. Tạp chí xuất bản các tài liệu nghiên cứu và khảo sát về lý thuyết và ứng dụng của Research Research.Tổng biên tập là Yves Crama (Đại học Liège), Michel Grabisch (Đại học Pantheon-Sorbonne) và Silvano Martello (Đại học Bologna).
|
||||
Tóm tắt và chỉ mục.
|
||||
Tạp chí được tóm tắt và lập chỉ mục cho các cơ sở dữ liệu sau:
|
||||
Theo "Journal Citation Reports", tạp chí có hệ số ảnh hưởng năm 2016 là 1.559.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,6 @@
|
|||
51 Nemausa
|
||||
|
||||
Nemausa (định danh hành tinh vi hình: 51 Nemausa) là một tiểu hành tinh lớn ở vành đai chính có thành phần cấu tạo tương tự như tiểu hành tinh 1 Ceres. Nó được phát hiện vào ngày 22 tháng 1 năm 1858 bởi Joseph Jean Pierre Laurent ở một đài thiên văn tư nhân ở thành phố Nîmes, Pháp. Do đó tiểu hành tinh này được đặt tên theo thành phố này (theo tên tiếng Latinh). Người phát hiện ra nó là một người mang tên "J. Laurent" nào đó, và người này cũng không có phát hiện thêm một tiểu hành tinh nào nên chẳng ai biết về ông. Việc phát hiện tiểu hành tinh này diễn ra ở một đài thiên văn tư nhân trong ngôi nhà trước đây thuộc sở hữu của Benjamin Valz, người đã rời bỏ nơi đây để tới làm giám đốc đài thiên văn Marseille. Ông ta giao đài thiên văn cũ của mình cho L. Laurent - người sau đó đã phát hiện ra "51 Nemausa". Ngôi nhà này tọa lạc ở số 32 phố Nationale ở Nîmes, hiện có một tấm biển tưởng niệm việc phát hiện tiểu hành tinh này.
|
||||
Một vệ tinh nhỏ của tiểu hành tinh này, được cho là có thể có, căn cứ trên các dữ liệu đường cong ánh sáng của nó.
|
||||
Nemausa có thể có dung lượng nước khoảng 14%.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,15 @@
|
|||
52246 Donaldjohanson
|
||||
|
||||
52246 Donaldjohanson, chỉ định tạm thời 1981 EQ5, là một tiểu hành tinh Erigonian cacbon từ các vùng bên trong của vành đai tiểu hành tinh, có đường kính khoảng 4 km (2,5 dặm). Nó được phát hiện vào ngày 2 tháng 3 năm 1981, bởi nhà thiên văn học người Mỹ Schelte Bus tại Đài thiên văn Siding Spring ở Úc. Tiểu hành tinh loại C là mục tiêu của nhiệm vụ Lucy và được đặt theo tên của nhà cổ sinh vật học người Mỹ Donald Johanson.
|
||||
Quỹ đạo và phân loại.
|
||||
"52246 Donaldjohanson" là một thành viên của họ Erigone, một họ tiểu hành tinh lớn chứa gần 2.000 thành viên đã biết, được đặt theo tên hành tinh mẹ của nó là 163 Erigone. Đây là một họ tương đối lâu đời được tạo ra cách đây khoảng 130 triệu năm.
|
||||
Nó quay quanh Mặt trời trong Vành đai tiểu hành tinh với khoảng cách 1,9–2,8 AU 3 năm 8 tháng một lần (1.345 ngày; bán trục lớn là 2,38 AU). Quỹ đạo của nó có độ lệch tâm 0,19 và độ nghiêng 4° so với mặt phẳng hoàng đạo. Lần khám phá đầu tiên được thực hiện tại đài thiên văn khám phá vào tháng 2 năm 1981, kéo dài vòng cung quan sát của vật thể thêm 2 tuần trước khi quan sát phát hiện chính thức của nó.
|
||||
Mục tiêu và nhiệm vụ của Lucy.
|
||||
"52246 Donaldjohanson" dự kiến sẽ đến thăm bằng tàu vũ trụ Lucy được phóng vào ngày 16 tháng 10 năm 2021. Chuyến bay này được lên kế hoạch vào ngày 20 tháng 4 năm 2025 và sẽ tiếp cận tiểu hành tinh ở khoảng cách 922 km (573 mi) với vận tốc 13,4 km (8,3 mi) trên giây.
|
||||
Thuộc tính vật lý.
|
||||
"52246 Donaldjohanson" được đặc trưng là một tiểu hành tinh loại C chứa carbon, phù hợp với loại quang phổ tổng thể C và X cho các tiểu hành tinh Erigonia. Nó có độ sáng tuyệt đối là 15,5.
|
||||
Đường cong ánh sáng.
|
||||
Các quan sát trắc quang của "52246" "Donaldjohanson" vào tháng 8 năm 2020 cho thấy nó là một vật thể quay chậm với biên độ xoáy sáng đặc biệt cao là 1,7 độ richter . Vầng sáng gợi ý rằng "52246" "Donaldjohanson" phải có hình dạng rất dài, hoặc có thể là một hệ nhị phân đồng bộ. Các quan sát trắc quang mở rộng bằng hai kính thiên văn TRAPPIST từ tháng 11 năm 2020 đến tháng 2 năm 2021 đã xác định chu kỳ quay của "52246 Donaldjohanson" là khoảng 252 giờ.
|
||||
Đường kính và địa hình.
|
||||
Theo cuộc khảo sát được thực hiện bởi Nhà thám hiểm khảo sát hồng ngoại trường rộng của NASA với sứ mệnh NEOWISE tiếp theo, "52246" "Donaldjohanson" có đường kính 3,895 km và bề mặt của nó có độ cao 0,103 m.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,15 @@
|
|||
56 Pegasi
|
||||
|
||||
56 Pegasi là tên của một hệ sao đôi nằm trong một chòm sao phương bắc tên là Phi Mã. Với cấp sao biểu kiến kết hợp của 2 ngôi sao này là 4,74, ta có thể nhìn thấy ngôi sao này bằng mắt thường. Để có thể nhìn thấy nó rõ ràng nhất, ta cần có một vị trí cách xa thành thị (do sự ô nhiễm ánh sáng làm hạn chế tầm nhìn) và điều kiện thời tiết tốt. Khoảng cách của hệ sao này với chúng ta là khoảng xấp xỉ 590 năm ánh sáng dựa trên giá trị thị sai. Nhưng hiện tại, nó đang di chuyển về phía chúng ta với tốc độ là 28 km/s. Nó được liệt kê là một thành viên của nhóm di chuyển Wolf 630.
|
||||
Sự biến đổi vận tốc xuyên tâm của nó được công bố bởi nhà thiên văn học người Mĩ William Wallace Campbell vào năm 1911. Nó là một hệ sao đôi quang học với chu kì quỹ đạo của nó là 111,1 ngày. Giá trị "a" sin "i" của nó là 0.01511 ± 0.00040 đơn vị thiên văn, với "a" là trục lớn quỹ đạo, "i" là độ nghiêng quỹ đạo chưa biết.
|
||||
Ngôi sao chính của nó là một ngôi sao khổng lồ dị thường vờipha6n loại quang phổ là K0,5 II: Ba1 CN-2 CH-0.5. Tức là nó là ngôi sao khổng lồ loại K, có nhiều Bari và thiếu đi gốc Cyano và gốc Methylidyne. Nó là một ngôi sao hoạt động tích cực với tuổi được ước tính trên dữ liệu thô là 100 triệu năm tuổi. Nó có khối lượng gấp 5,4 lần khối lượng mặt trời, bán kính gấp 40 lần và độ sáng gấp 680 lần mặt trời với nhiệt độ hiệu dụng nơi quang cầu là 4416 Kelvin.
|
||||
Dữ liệu hiện tại.
|
||||
Theo như quan sát, đây là hệ sao nằm trong chòm sao Phi Mã và dưới đây là một số dữ liệu khác:
|
||||
Xích kinh
|
||||
Xích vĩ
|
||||
Cấp sao biểu kiến 4.74
|
||||
Cấp sao tuyệt đối −1.32
|
||||
Vận tốc xuyên tâm 27.55 km/s
|
||||
Loại quang phổ K0.5II:Ba1CN-2CH-0.5 + sdO
|
||||
Giá trị thị sai 5,51 +/- 0,23 mas
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,8 @@
|
|||
6-phosphogluconolactonase
|
||||
|
||||
6-Phosphogluconolactonase (6PGL, PGLS) là một enzyme cytosolic được tìm thấy trong tất cả các sinh vật xúc tác quá trình thủy phân 6-phosphogluconolactone thành axit 6-phosphogluconic trong giai đoạn oxy hóa của con đường pentose phosphate. Cấu trúc bậc ba của 6PGL chứa nếp gấp hydrolase α/β, với dư lượng vị trí hoạt động được nhóm lại trên các vòng chuỗi α. Dựa trên cấu trúc tinh thể của enzyme, cơ chế được đề xuất phụ thuộc vào sự chuyển proton bởi dư lượng histidine trong vị trí hoạt động. 6PGL xúc tác chọn lọc quá trình thủy phân-6-phosphogluconolactone và không có hoạt tính trên đồng phân γ.
|
||||
Cơ chế enzyme.
|
||||
Cơ chế quá trình thủy phân 6PGL từ 6-phosphogluconolactone thành axit 6-phosphogluconic được đề xuất tiến hành thông qua chuyển proton sang nguyên tử oxy vòng O5, tương tự như xylose isomerase và ribose-5-phosphate isomerase. Phản ứng bắt đầu khi ion hydroxide tấn công tại ester C5. Bằng cách cho một proton từ sản phẩm histidine ở trạng thái hoạt động, một dạng trung gian có cấu trúc tứ diện hình thành và có sự tách liên kết este. Các mô phỏng động lực phân tử đã khám phá ra rằng sản phẩm cho proton là histidine và sản phẩm arginine chỉ liên quan đến ổn định điện tích của nhóm phosphate tích điện âm. Sự ổn định điện tích của phức hợp enzyme-cơ chất cũng xảy ra giữa các sản phẩm carboxylate và amin trong sản phẩm chứa glycine xung quanh.
|
||||
Bệnh liên quan.
|
||||
Ký sinh trùng sốt rét "Plasmodium berghei" và "Plasmodium falciparum" là biểu hiện của một enzyme chức năng sinh học thể hiện sự hoạt động của glucose-6-phosphate dehydrogenase và 6-phosphogluconolactonase, cho phép nó xúc tác hai bước đầu tiên của con đường pentose. Enzym 2 chức năng này được xác định là mục tiêu nghiên cứu chống ký sinh trùng sốt rét, và sàng lọc thông lượng cao các chất ức chế phân tử nhỏ, dẫn đến việc phát hiện ra các hợp chất mới có khả năng sản xuất ra thuốc chống sốt rét mạnh.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,29 @@
|
|||
7 Seeds
|
||||
|
||||
7 seeds (セブンシーズ, 7 Mầm sống) là bộ manga giả tưởng của tác giả Tamura Yumi, xuất bản trên tạp chí "Bessatsu Shōjo Comic" của Shogakukan từ năm 2001 sau đó chuyển xuất bản qua tạp chí "Flowers" từ năm 2002. Tính đến năm 2017, bộ truyện đã hoàn thiện với 35 tập tankōbon. Tác phẩm đã đoạt Giải Manga Shogakukan 2007 cho thể loại Shoujo. Tại Việt Nam, bộ truyện hiện đang được dịch bởi nhóm Lesix và được nhà xuất bản Kim Đồng phát hành với tên "7 mầm sống" dưới hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của nhà xuất bản Shogakukan.
|
||||
Tóm tắt nội dung.
|
||||
Sau khi các nhà khoa học và học giả dự báo về thảm họa toàn cầu: một thiên thạch sẽ đâm vào Trái Đất trong tương lai gần, chính phủ các nước đã tổ chức họp kín để đề ra các kế sách ngăn ngừa mối hiểm họa này. Một trong số đó là dự án "7SEEDS".
|
||||
"7SEEDS" được thành lập nhằm lưu giữ và duy trì con người phòng trường hợp cả nhân loại bị tuyệt diệt sau cú va chạm giữa thiên thạch và Trái Đất. Dự án chọn lựa những thanh thiếu niên khỏe mạnh, chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm 7 người và 1 hướng dẫn viên, bảo quản ở trạng thái ngủ đông và được chôn phân tán nhằm tránh tác động của cú va chạm. Sau khi máy tính xác định khí hậu và môi trường trên bề mặt địa cầu đã ổn định trở lại và đủ điều kiện cho sự sống tồn tại, những người này sẽ được rã đông và giải phóng ra thế giới bên ngoài, nơi họ phải tham gia vào một cuộc chiến sinh tồn không có điểm kết.
|
||||
Sau khi được rã đông, các nhóm bắt đầu tản đi tìm "7 ngọn Fuji" theo chỉ dẫn của hướng dẫn viên. Trên đường đi, một vài nhóm gặp nhau và dần dần thu về sống tập trung. Cũng cùng thời điểm này, việc khám phá ra các khu căn cứ ngầm đã mở ra cho họ những bí mật kinh hoàng về các sự việc xảy ra ngay trước thềm cơn chấn động.
|
||||
Các nhóm.
|
||||
Dự án "7SEEDS" gồm 5 nhóm, tên của các nhóm được đặt theo mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Riêng Mùa Hạ có Hạ A và Hạ B. Thành viên các nhóm (trừ nhóm Hạ) đều được tuyển lựa kỹ càng dựa trên hàng trăm yếu tố về di truyền, lịch sử dòng họ, sức khỏe, năng khiếu. Hạ A và Hạ B đều là hai trường hợp cá biệt, nhưng cũng đồng thời là hai thái cực đối lập nhau: Hạ A bao gồm những thanh niên sinh ra do thụ tinh nhân tạo từ các trứng và tinh trùng qua tuyển lựa khắt khe, được quản thúc và huấn luyện bài bản từ khi nhỏ; trong khi đó, Hạ B lại được mệnh danh là nhóm gồm những người bỏ đi, những "thanh niên có vấn đề".
|
||||
Đặc biệt, tên của các thành viên trong từng nhóm đều là các quý ngữ liên quan tới mùa mà nhóm đó được đặt tên theo.
|
||||
Nhóm Mùa Hạ A.
|
||||
Nhóm Hạ A xuất hiện sau cùng trong truyện, tuy nhiên, đây lại là nhóm đầu tiên được thành lập trong dự án 7SEEDS, 17 năm trước khi 4 đội còn lại ra đời. Hạ A bao gồm những đứa trẻ được sinh ra thông qua quá trình thụ tinh nhân tạo giữa các cặp trứng và tinh trùng được tinh tuyển, chỉ có tên, không mang họ, được nuôi tập trung và quản thúc tại một vùng biệt lập với thế giới bên ngoài. Ban đầu, số lượng thành viên lớn hơn 100 người, nhưng trải qua 17 năm đặc huấn, con số rút dần do có những người bị loại vì không đạt yêu cầu.
|
||||
Khác với các nhóm còn lại, Hạ A được trang bị đầy đủ các kiến thức phổ thông và chuyên sâu về mọi kỹ năng cần thiết cho việc sinh tồn cũng như được huấn luyện thành xạ thủ. Tới năm 13 tuổi, các học viên trong trường bắt buộc phải tham gia vào 7 lớp đặc huấn: Lửa, Nước, Đất, Gió, Y, Động Vật, Thực Vật. Từ mỗi lớp, sẽ chọn ra 1 người đứng đầu để thành lập nhóm Mùa Hạ A gồm 7 thành viên để tham gia chính thức vào dự án 7SEEDS.
|
||||
Thành viên:
|
||||
Các nhân vật phụ:
|
||||
Nhóm Mùa Hạ B.
|
||||
Nhóm Hạ B là nhóm đầu tiên xuất hiện trong truyện, bao gồm những người khó hòa nhập với cộng đồng. Nơi đầu tiên họ đặt chân tới là Đảo Mèo. Hầm trú ẩn đầu tiên tìm thấy được là Bungo Fuji ở Yufudake, Bắc Kyushu.
|
||||
Thành viên:
|
||||
đơn".
|
||||
Nhóm Mùa Xuân.
|
||||
Nhóm mùa xuân là nhóm thứ 2 xuất hiện trong truyện, đội mùa xuân tỉnh dậy trên thuyền và trôi đến một hòn đảo toàn côn trùng, trên biển không có cá, đội mùa xuân phải đấu tranh giành giật thức ăn và nước uống.
|
||||
Thành viên:
|
||||
Nhóm Mùa Đông.
|
||||
Nhóm mùa đông xuất hiện thứ 3 trong truyện, nhưng lại là nhóm tỉnh dậy đầu tiền trước các nhóm khác 15 năm, nhóm mùa đông tỉnh dậy chỉ còn lại 5 người 3 người đã chết thành xác khô, đội mùa đông là đội bi thảm nhất khi tỉnh dậy, vì đến cuối cùng chỉ còn lại aramaki.
|
||||
Thành viên:
|
||||
Nhóm Mùa Thu.
|
||||
Là đội có hướng dẫn viên tệ nhất, nhút nhát, đội mùa thu xuất hiện thứ 4, thức dậy sớm thứ 2, tỉnh dậy sau đội mùa đông 12 năm, và tỉnh dậy trước đội mùa hạ b và đội mùa xuân 3 năm, lang thang suốt 1 năm đển tìm người sống sót, đến năm thứ 2 thì định cư ở một trong 7 ngọn fuji, có cuộc sống ổn định nhưng sống phong kiến, sống ngập trong thuốc phiện, ngôi làng của họ sau đó bị phá huỷ do thiên tai
|
||||
Thành viên:
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,5 @@
|
|||
7SENSES
|
||||
|
||||
7Senses, hay thường được cách điệu thành Sen7es hoặc 7SENSES, là một đơn vị nhỏ định hướng quốc tế hóa của nhóm nhạc nữ Trung Quốc SNH48. 7SENSES đã ra mắt tại Lễ trao giải hàng đầu Trung Quốc ERC lần thứ 24 vào ngày 27 tháng 3 năm 2017 tại Thượng Hải, Trung Quốc với bài hát mới "Girl Crush" và debut showcase diễn ra vào ngày 7 tháng 4 năm 2017 tại Thượng Hải. 7SENSES là đơn vị toàn cầu đầu tiên của SNH48, bao gồm các thành viên: Triệu Việt (Akira), Đới Manh (Diamond), Hứa Dương Ngọc Trác (Eliwa), Hứa Giai Kỳ (Kiki), Trần Lâm (Lynn) và Trương Ngữ Cách (Tako),Khổng Tiếu Ngâm (Bee). Họ được đào tạo bởi một nhóm chuyên gia quốc tế và được đào tạo bổ sung tại Hàn Quốc, tiếp thu và học hỏi từ hệ thống thần tượng Hàn Quốc. 7SENSES trình bày một hình ảnh hoàn toàn khác, thể hiện phong cách hip-hop lạnh lùng, mạnh mẽ. Số 7 là đại diện của sự hoàn hảo, may mắn và khả năng vô hạn trên sân khấu.
|
||||
7SENSES bắt đầu chương trình thực tế đầu tiên mang tên "Lucky Seven Baby" vào ngày 2 tháng 5 năm 2017. Mùa thứ hai dự kiến vào ngày 18 tháng 12 năm 2017. Mùa thứ ba được phát hành vào ngày 20 tháng 12 năm 2018. Mùa thứ tư được phát hành vào ngày 8 tháng 11 năm 2019. Mùa thứ năm được phát hành vào ngày 16 tháng 9 năm 2020.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,4 @@
|
|||
86 Semele
|
||||
|
||||
Semele (định danh hành tinh vi hình: 86 Semele) là một tiểu hành tinh lớn và rất tối ở vành đai chính với chu kỳ quỹ đạo là 5,5 năm. Nó đang quay với chu kỳ 16,6 giờ và độ lớn thay đổi 0,13 trong mỗi chu kỳ. Thành phần cấu tạo của nó dường như bằng cacbonat. Semele do nhà thiên văn học người Đức Friedrich Tietjen phát hiện ngày 4 tháng 01 năm 1866 và được đặt theo tên Semele, mẹ của Dionysus trong thần thoại Hy Lạp. Đây là tiểu hành tinh duy nhất do Friedrich Tietjen phát hiện.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
8 Bold Souls
|
||||
|
||||
8 Bold Souls là một ban nhạc hòa tấu nhạc jazz của Mỹ, do Edward Wilkerson chỉ huy.
|
||||
Nhóm được thành lập vào năm 1985 bởi Wilkerson, liên kết với Hiệp hội vì sự tiến bộ của các nhạc sĩ sáng tạo. Họ bắt đầu tại Chicago Filmmakers, một địa điểm biểu diễn ở Chicago, nơi họ chơi vào các ngày thứ 5 trong tuần. Các buổi biểu diễn được mệnh danh là "New Music for 8 Bold Souls", và cuối cùng nhóm đã lấy tên rút gọn cho các buổi biểu diễn ở những nơi khác. 8 Bold Souls hoạt động không liên tục trong suốt những năm 1990, thu âm cho Arabesque Records, và năm 1999 phát hành một album dưới nhãn đĩa Thrill Jockey, sau đó là buổi biểu diễn tại Trung tâm Giao hưởng Chicago và tại các lễ hội.
|
||||
Mwata Bowden là một trong những nhạc sĩ chơi trong nhóm. Các thành viên khác bao gồm nghệ sĩ thổi kèn Robert Griffin, nghệ sĩ kèn trombonic Isaiah Jackson, nghệ sĩ kèn ống chính Aaron Dodd và nghệ sĩ đàn ống Gerald Powell, nghệ sĩ cello Naomi Millender, nghệ sĩ chơi bass Richard Jess Brown, Jr. (còn được gọi là Jess Brown và R. Jess Brown, Jr.), tay bass Harrison Bankhead, nghệ sĩ bộ gõ Steve McCall và Dushun Mosley.
|
||||
Aaron Dodd qua đời ngày 17/6/2010 do biến chứng của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Ngoài thời gian với 8 Bold Souls, Dodd đã làm việc với Leroy Hutson, The Pharaohs và anh đã thu âm cho Motown Records với Donny Hathaway.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,5 @@
|
|||
98 Mute
|
||||
|
||||
98 Mute là một ban nhạc hardcore punk của Mỹ đến từ Hermosa Beach, California, Hoa Kỳ. Họ được thành lập vào năm 1993 và ký hợp đồng với Theologian Records vào năm 1995. Album đầu tiên cùng tên của họ được phát hành vào năm 1996, và ban nhạc đã được giới thiệu trên một số video trượt ván và tổng hợp nhạc punk của California. Nhóm đã đi lưu diễn với các ban nhạc như The Offspring, Blink-182 và Pennywise. Một album thứ hai phát hành bởi Theologian được tiếp nối vào năm 1998 trước khi nhóm được Epitaph Records chọn. Họ đã phát hành hai album dưới nhãn đĩa Epitaph trước khi chia tay vào tháng 9 năm 2002, ngay sau khi phát hành toàn tập thứ tư, "After the Fall".
|
||||
98 Mute tái hợp vào năm 2016.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,16 @@
|
|||
9K112 Kobra
|
||||
|
||||
|
||||
9K112 "Kobra" là một tổ hợp tên lửa chống tăng dẫn hướng bằng dây SACLOS của Liên Xô. Tổ hợp này được phóng đi từ súng chính 125 mm của xe tăng T-64 và T-80. Phương Tây đặt tên cho tổ hợp này là AT-8 "Songster".
|
||||
Phát triển.
|
||||
Thể hệ đầu tiên của các tên lửa phóng từ xe tăng của Liên Xô bắt đầu vào năm 1956 khi V.A. Malyshev được yêu cầu từ Khrushchev phải thực hiện một "suy nghĩ mới" trong các phòng thiết kế vũ khí. Một phần của "suy nghĩ mới" này là phát triển tổ hợp tên lửa phóng từ xe tăng bao gồm xe tăng IT-1 trang bị tên lửa Drakon và Taifun có tên gọi Obiekt 297. Tuy nhiên thiết kế xe tăng ban đầu đã thất bại. Một mẫu thiết kế xe tăng chỉ trang bị toàn tên lửa có bán kính vùng chết là 300 m quanh xe, trong bán kính này xe không thể tấn công các mục tiêu - cũng như kích thước của các tên lửa ban đầu bị đã giới hạn số lượng tên lửa mang theo. Các thiết kế lai bao gồm cả hỏa lực pháo chính và khả năng mang tên lửa.
|
||||
Những giới hạn đã dẫn đến việc phát triển một tổ hợp lai, trong tổ hợp mới này tên lửa được bắn đi từ nòng của khẩu pháo chính của xe tăng. Thế hệ đầu tiên của khái niệm này là xe tăng Obiekt 775, trang bị với một khẩu pháo nòng trơn 125 mm có thể bắn các đạn phản lực không dẫn hướng nổ mạnh, hoặc đạn dẫn hướng điều khiển vô tuyến. Đạn dẫn hướng có tên gọi Rubin (Ruby) và đạn không dẫn hướng có tên gọi là Bur (Drill). Xe tăng có thể mang được 24 tên lủa Rubin và 48 đạn phản lực Bur. Dự án này thất bại do đầu nổ lõm của Rubin không có hiệu quả như mong muốn, và còn có lo lắng về việc đường chỉ huy tên lửa có thể bị gây nhiễu.
|
||||
Sự phát triển tiếp tục trong thập niên 1960 nhưng nó không được hoàn thành cho đến thập niên 1970, khi sự chú ý một cách nghiêm túc về khái niệm này đã được thực hiện lần nữa. Điều này có thể do 3 yêu tố:
|
||||
Việc phát triển thế hệ thứ hai của các đạn dẫn hướng bắn từ ống phóng của Liên Xô bắt đầu vào thập niên 1970. Tổ hợp tên lửa Kobra có cuộc cạnh tranh với tổ hợp Gyurza dẫn hướng hồng ngoại. Tổ hợp Gyurza dẫn hướng hồng ngoại đã bộc lộ một số vấn đề và do đó Kobra đã được đưa vào sản xuất. 9K112 đã được trang bị trên xe tăng mới T-64B vào năm 1976. T-80B cũng được trang bị tổ hợp này. Tổ hợp Gyurza tiếp tục được phát triển, nó đã bỏ hệ dẫn hướng hồng ngoại mà thay bằng dẫn hướng chỉ huy vô tuyến - tỏ hợp này sau đó đã phát triển thành "Shturm" hay AT-6 Spiral.
|
||||
Giá mỗi quả tên lửa vào năm 1976 là khoảng 5.000 rúp, khá đắt so với đạn pháo thông thường (một động cơ diesel cho xe tăng thời đó có giá 9.000 rúp, một chiếc T-64A có giá 143.000 rúp), do vậy nó chỉ được ưu tiên trang bị cho những loại xe cao cấp như T-64B và T-80 (mỗi xe cũng thường chỉ trang bị 4 tên lửa) Sau này, khi công nghệ phát triển hơn thì loại tên lửa này mới được trang bị cho xe tăng T-72B (năm 1985)
|
||||
Miêu tả.
|
||||
Tên lửa 9M112 Kobra gồm 2 phần:
|
||||
2 phần riêng biệt được cất trong thiết bị nạp đạn tự động của xe tăng theo cách tương tự như đạn 125 mm thông thường.
|
||||
Tên lửa có thể được phóng bằng một trong ba chế độ:
|
||||
Tên lửa có vận tốc đầu nòng là 125 m/s, sau đó tăng lên tới tối đa 800 m/s, nhưng trung bình thường là 350–400 m/s. Thời gian bay đạt 4000 m là khoảng 9 đến 10 giây. Tên lửa có một đầu đạn HEAT đơn 4.5 kg, đầu đạn này có thể xuyên thủng giáp RHA 600 mm
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,15 @@
|
|||
9M117 Bastion
|
||||
|
||||
|
||||
9M117 Bastion là tổ hợp tên lửa chống tăng bám chùm laser do Nga chế tạo. Nó là một trong số những tổ hợp vũ khí riêng biệt bao gồm tổ hợp tên lửa 9K116-1 Bastion (AT-10 Stabber), 9K118 Sheksna (AT-12 Swinger), Kastet và 3UBK12 trang bị cho BMP-3. Đạn 100 mm trang bị nằm 1983. AT-10 Stabber là tên ký hiệu NATO của tổ hợp này.
|
||||
Phát triển.
|
||||
AT-8 Songster là tổ hợp tên lửa chống tăng phóng từ ống đầu tiên của Liên Xô được đưa vào trang bị, tuy nhiên nó chỉ được trang bị hạn chế cho một số đơn vị tiền tuyến. Việc phát triển bắt đầu vào cuối thập niên 1970 đối với thế hệ thứ ba của đạn dẫn hướng điều khiển, loại đạn này sử dụng dẫn hướng laser thay vì dẫn hướng radio. Hệ dẫn hướng được phát triển bởi Igor Aristarkhov, và đạn tên lửa được phát triển bởi Petr Komonov.
|
||||
9M117 Bastion được phát triển với mục đích nâng cáo hỏa lực tầm xa của xe tăng T-55 và T-62. Thêm nữa, một chương trình đã được bắt đầu để phát triển thế hệ tiếp theo của AT-8 Songster cho các xe tăng đời mới trang bị pháo 125 mm. Cả đạn thường và đạn tên lửa đều sử dụng dẫn hướng laser. Một hình nón chia thành các vùng được chiếu từ đèn laser của xe tăng, mỗi vùng có tần số hay điều chế khác nhau. Đạn tên lửa có một cửa sổ nhỏ ở phía sau gắn một cảm biến để phát hiện sự điều chế ánh sáng. Sử dụng sự điều chế này, đạn tên lửa tự lái, duy trì vị trí của nó trong hình nón.
|
||||
Miêu tả.
|
||||
Đạn 100 mm tương tự như đạn chống tăng 100 mm bình thường, và nó được nạp và phóng trong cùng một kiểu. Loại đạn này sử dụng một thuốc phóng đã giảm chất nổ để phóng đạn ra khỏi nòng pháo với tốc độ 400–500 m/s. Sau khi rời nòng pháo, một vỏ nhỏ sẽ rơi từ cửa sổ xuống phía sau của đạn tên lửa. Động cơ tên lửa được khởi động 1.5 giây sau khi bắn tên lửa, và nó cháy trong 6 giây.
|
||||
Tên lửa có thời gian bay đến mục tiêu cách 4000 mét là khoảng 12 giây, và xác suất trúng mục tiêu có kích cỡ xe tăng là khoảng 80%. Sau 26 đến 41 giây, tên lửa sẽ tự hủy.
|
||||
Các biến thể.
|
||||
Đạn của tổ hợp 9M117 "Bastion"; xuyên giáp trung bình 600 mm RHA sau giáp ERA
|
||||
Đạn của tổ hợp 9M117M "Kan" trang bị đầu nổ nối tiếp HEAT; xuyên giáp trung bình 650 mm RHAe sau giáp ERA
|
||||
Đạn của tổ hợp 9M117M1 "Arkan" trang bị đầu nổ nối tiếp HEAT với tầm bắn 100–6.000 m; xuyên giáp trung bình 750 mm RHAe sau giáp ERA
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,6 @@
|
|||
Đá Bia
|
||||
|
||||
Đá Bia là một rạn san hô thuộc cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa. Đá này nằm giữa đá Tư Nghĩa ở ngay phía đông bắc và đá Ken Nan ở ngay phía tây bắc.
|
||||
Đá Bia là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát đá này.
|
||||
Một số tài liệu nhầm lẫn giữa Đá Bia và đá Vị Khê (Bamford Reef) cho rằng đá Bia nằm giữa đá Vị Khê và đá Ninh Hòa (Tetley Reef), tuy nhiên không tồn tại bất cứ thực thể địa lý như vậy trên hình ảnh vệ tinh. Đây có thể là do sự nhầm lần vị trí giữa đá Ninh Hòa với một thực thể chưa được đặt tên nằm về phía tây nam của đá này.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,17 @@
|
|||
Đá biến chất
|
||||
|
||||
Đá biến chất được hình thành từ sự biến tính của đá mácma, đá trầm tích, thậm chí cả từ đá biến chất có trước, do sự tác động của nhiệt độ, áp suất cao (nhiệt độ lớn hơn 150 đến 200 °C và áp suất khoảng trên 1500 bar) và các chất có hoạt tính hoá học, gọi là quá trình biến chất.
|
||||
Các chất có hoạt tính hoá học thường gặp nhất là nước và axit cacbonic thường xuyên có trong tất cả các loại đất, đá. Tính chất của đá biến chất do tình trạng biến chất và thành phần của đá trước khi bị biến chất. Dưới sự tác động của các tác nhân biến chất, các thành phần của đá có thể tái kết tinh ở trạng thái rắn và sắp xếp lại. Tác dụng biến chất không những có thể cải biến cấu trúc của đá mà còn làm thay đổi thành phần khoáng vật của nó.
|
||||
Trong quá trình biến chất do tác động của áp lực và sự tập hợp nhiều loại kết tinh nên đá biến chất thường rắn chắc hơn đá trầm tích; nhưng đá biến chất từ đá mácma thì do cấu tạo dạng phiến mà tính chất cơ học của nó kém đá mácma.
|
||||
Các đá biến chất chiếm phần lớn trong lớp vỏ của Trái Đất và được phân loại dựa trên cấu tạo, và thành phần hóa học và khoáng vật hay còn gọi là tướng biến chất. Chúng có thể được tạo ra dưới sâu trong lòng đất bởi nhiệt độ và áp suất cao hoặc được tạo ra từ các quá trình kiến tạo mảng như va chạm giữa các lục địa, và cũng được tạo ra khi khối mác ma có nhiệt độ cao xâm nhập lên lớp vỏ của Trái Đất làm các đá có trước bị biến đổi.
|
||||
Khoáng vật trong đá biến chất.
|
||||
Các khoáng vật tạo đá biến chất chủ yếu là những khoáng vật nằm trong đá mácma, đá trầm tích và cũng có thể là các khoáng vật đặc biệt chỉ có ở trong các loại đá biến chất dưới sâu như sillimanit, kyanit, staurolit, andalusit, và granat
|
||||
Các khoáng vật khác cũng được tìm thấy như olivin, pyroxen, amphibol, mica, fenspat, và thạch anh nhưng không nhất thiết là kết quả của quá trình biến chất. Các khoáng vật này bền vững ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cao nên chúng ít bị biến đổi hóa học trong quá trình biến chất. Tuy nhiên, các khoáng vật trên chỉ không bị biến đổi trong một giới hạn nhất định, sự có mặt của một số koáng vật trong đá biến chất phản ánh nhiệt độ và áp suất hình thành chúng.
|
||||
Sự thay đổi kích thước hạt của đá trong quá trình biến chất được gọi là quá trình tái kết tinh. Ví dụ, các tinh thể canxít trong đá vôi kết tinh thành các hạt lớn hơn trong đá hoa, hay sa thạch bị biến chất sự kết tinh của các hạt thạch anh ban đầu tạo thành đá quartzit rất chặt thường gồm các tinh thể thạch anh lớn hơn đan xen vào nhau. Cả hai yếu tố là nhiệt độ và áp suất cao đều tạo ra sự tái kết tinh. Nhiệt độ cao cho phép các nguyên tử và ion di chuyển và làm sắp xếp lại các tinh thể, còn áp suất làm cho các tinh thể hòa tan tại các vị trí chúng tiếp xúc nhau.
|
||||
Phần lớn đá biến chất (trừ đá hoa và đá quartzit) là quá nửa khoáng vật của nó có cấu tạo dạng phiến gồm các lớp song song nhau, dễ tách thành những phiến mỏng.
|
||||
Cấu tạo đá biến chất.
|
||||
Sự hình thành các lớp nằm trong các đá biến chất được gọi là sự phân lớp. Các lớp này được hình thành do lực nén ép theo một trục trong quá trình tái kết tinh, và đồng thời tạo ra các khoáng vật kết tinh dạng tấm như mica, clorit có mặt phẳng vuông góc với lực tác dụng.
|
||||
Cấu tạo của đá biến chất được chia thành hai loại là cấu tạo phân lớp và cấu tạo không phân lớp.
|
||||
Các kết cấu đá biến chất.
|
||||
Năm kết cấu đá biến chất cơ sở với các kiểu đá điển hình là:
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,30 @@
|
|||
A.C. ChievoVerona
|
||||
|
||||
Associazione Calcio ChievoVerona, thường được gọi là ChievoVerona hoặc đơn giản là Chievo [kjeːvo], là một bóng đá Ý có trụ sở tại Chievo, một vùng ngoại ô của 4.500 cư dân ở Verona, Veneto, và thuộc sở hữu của Paluani, một công ty sản phẩm bánh mì và nguồn cảm hứng cho tên ban đầu của họ, Paluani Chievo. Câu lạc bộ chia sẻ sân vận động Marcantonio Bentegodi 38.402 chỗ ngồi với các đối thủ cùng thành phố Hellas Verona.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
Những năm đầu.
|
||||
Đội bóng được thành lập vào năm 1929 bởi một số ít người hâm mộ bóng đá từ quận nhỏ Chievo, một khu phố ở Verona. Ban đầu câu lạc bộ không chính thức liên kết với Liên đoàn bóng đá Ý (FIGC), nhưng dù sao cũng đã chơi một số giải đấu nghiệp dư và các trận giao hữu dưới tên gọi "OND Chievo", tên gọi do chế độ phát xít đặt. Sự ra mắt chính thức của câu lạc bộ trong một giải đấu chính thức là vào ngày 8 tháng 11 năm 1931. Màu sắc của đội lúc đó là xanh và trắng. Chievo tan rã vào năm 1936, tuy nhiên, do khủng hoảng kinh tế nhưng đã quay trở lại chơi vào năm 1948 sau Thế chiến II, được tham gia "Seconda Divisione" (Giải hạng hai). Năm 1957, đội chuyển đến trường giáo xứ "Carlantonio Bottagisio", nơi họ chơi cho đến năm 1986. Năm 1959, sau khi tái cấu trúc các giải bóng đá, Chievo tham dự "Seconda Categoria" (Giải hạng hai), một giải đấu khu vực được đặt cạnh nhau trong kim tự tháp bóng đá Ý. Năm đó, Chievo đổi tên thành "Cardi Chievo", sau một nhà tài trợ mới, và nhanh chóng được thăng chức lên "Prima Cargetoria", từ đó đội trải qua lần xuống hạng đầu tiên vào năm 1962.
|
||||
Chuỗi thăng hạng liên tiếp.
|
||||
Năm 1964, Luigi Campedelli, một doanh nhân và chủ sở hữu của công ty Paluani, được bổ nhiệm làm chủ tịch mới của Chievo. Dưới thời chủ tịch của Campedelli, Chievo đã trèo lên toàn bộ kim tự tháp bóng đá Ý, đến Serie D sau mùa giải 1974-74. Dưới cái tên "Paluani Chievo", đội được thăng hạng Serie C2 vào năm 1986. Do thăng hạng lên các giải đấu cao, Chievo đã buộc phải chuyển đến Sân vận động Marcantonio Bentegodi, địa điểm chính ở Verona; lần thăng hạng khác, đến Serie C1, tiếp theo vào năm 1989. Năm 1990, câu lạc bộ đổi tên thành tên hiện tại, "AC ChievoVerona."
|
||||
Năm 1992, Chủ tịch Luigi Campedelli, người đã trở lại ở vị trí lãnh đạo của câu lạc bộ hai năm trước, đã chết vì một cơn đau tim, và con trai ông Luca Campedelli, chỉ 23 tuổi, trở thành chủ tịch mới và trẻ nhất của một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Ý. Campedelli đã thăng chức Giovanni Sartori lên làm giám đốc bóng đá và chỉ định Alberto Malesani làm huấn luyện viên trưởng mới. Dưới thời Malesani, đội bóng đã giành chiến thắng một cách đáng kinh ngạc tại Serie C1 và được thăng hạng lên Serie B, nơi đối thủ của thành phố Hellas Verona đang thi đấu vào thời điểm đó. Năm 1997, sau khi Malesani ký hợp đồng với Fiorentina, Silvio Baldini được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng mới. Mùa giải tiếp theo, với tư cách là huấn luyện viên, Domenico Caso, đã chứng kiến sự sa thải đầu tiên của một huấn luyện viên trong nhiệm kỳ chủ tịch của Luca Campedelli, với Caso bị sa thải và thay thế bằng Lorenzo Balestro. Chính trong những năm này, biệt danh "mussi volanti" ("lừa bay") đã ra đời. Nó có nguồn gốc từ những người ủng hộ Crosstown của họ đối thủ Hellas, những người sẽ nhạo báng dài bị những người ủng hộ Chievo rằng Chievo sẽ chỉ được thăng hạng nếu "con lừa có thể bay" (tương đương với ngôn ngữ tiếng Anh falsism "nếu lợn có thể bay", biểu thị một giấc mơ không thể).
|
||||
Vào mùa giải 2000-01, Luigi Delneri đã được ký hợp đồng với tư cách là huấn luyện viên và dẫn dắt Chievo, nhờ vào vị trí thứ ba tại Serie B, để thăng hạng lên Serie A, lần đầu tiên trong lịch sử đội bóng đạt được thứ hạng cao nhất của bóng đá Ý.
|
||||
Mussi Volanti (2001-2007).
|
||||
Trong mùa giải 2001-01, Chievo ra mắt Serie A, đội bóng được nhiều nhà phê bình lựa chọn nhất để trở lại Serie B. Sáu tuần liên tiếp. Câu lạc bộ cuối cùng đã kết thúc mùa giải với vị trí thứ năm rất đáng nể, đủ điều kiện để đội bóng chơi ở UEFA Cup. Màn trình diễn ấn tượng của Chievo đã truyền cảm hứng cho một cuốn sách năm 2002 về kinh tế bóng đá có tựa đề "Fenomeno Chievo. Economia, costume, società "của Marco Vitale.
|
||||
Vào năm 2002-03, Chievo đã ra mắt giải đấu châu Âu nhưng đã bị loại ở vòng đầu tiên bởi Red Star Belgrade. Đội kết thúc mùa giải Serie A ở vị trí thứ bảy, một lần nữa chứng tỏ mình là một trong những đội khá ở Serie A. Mùa giải 2003-04, lần cuối cùng với Delneri cầm quyền, đã chứng kiến Chievo kết thúc ở vị trí thứ chín.
|
||||
Mùa giải 2004-05 được nhớ đến là một trong những khó khăn nhất trong lịch sử của Chievo. Mario Beretta, một người mới chơi Serie A từ Ternana, trở thành huấn luyện viên, nhưng sau khởi đầu mạnh mẽ đã đưa Chievo đứng thứ ba sau Juventus và Milan, đội dần mất vị trí trong bảng xếp hạng. Với ba trận đấu còn lại trong mùa giải, Chievo là đội thứ ba từ cuối cùng, một vị trí sẽ đưa đội xuống hạng Serie B. Như một phương sách cuối cùng, Beretta bị sa thải và Maurizio D'Angelo, một cựu cầu thủ Chievo, được bổ nhiệm tạm thời thay anh làm huấn luyện viên. Tinh thần được cải thiện, và hai chiến thắng và một trận hòa từ ba trận đấu cuối cùng đã chứng minh vừa đủ để giữ Chievo ở lại Serie A.
|
||||
Trong mùa giải 2005-06, Giuseppe Pillon của Treviso FBC được bổ nhiệm làm huấn luyện viên mới. Đội bóng đã trải qua sự trở lại kỷ nguyên Delneri thành công, cả về phong cách chơi và kết quả, kết quả là Chievo kết thúc mùa giải thứ bảy và giành được một suất chơi tại UEFA Cup. Tuy nhiên, vì vụ bê bối bóng đá liên quan đến một số đội bóng hàng đầu (tất cả đều đạt vị trí cao hơn Chievo trong mùa giải 2005-06), Lừa bay đã được trao một vị trí trong giai đoạn tham gia Champions League tiếp theo.
|
||||
Vào ngày 14 tháng 7 năm 2006, bản án trong vụ bê bối đã được công khai. Juventus, Milan và Fiorentina, những đội ban đầu đều đủ điều kiện tham dự Champions League 2006-07, và Lazio, đội ban đầu đủ điều kiện tham dự UEFA Cup 2006-07, tất cả đều bị cấm thi đấu tại UEFA cho mùa giải 2006-07, mặc dù Milan được phép tham dự Champions League sau khi họ kháng cáo lên FIGC. Chievo đã chiếm một vị trí trong giai đoạn vòng loại thứ ba của cuộc thi cùng với Milan và phải đối mặt với câu lạc bộ Bulgaria Levski Sofia. Chievo thua trận lượt đi 2-0 tại Sofia và hòa 2-2 trên sân nhà ở trận lượt về và bị loại bởi tổng tỷ số 4 - 2 và Levski tiến vào vòng bảng Champions League. Là đội thua vòng loại Champions League, Chievo đã được trao một suất vào vòng loại cuối cùng của UEFA Cup. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2006, họ đối mặt với Braga từ Bồ Đào Nha. Trận lượt đi diễn ra vào ngày 14 tháng 9 tại Braga, kết thúc với chiến thắng 2-0 cho đội Bồ Đào Nha. Trận đấu trở lại, diễn ra vào ngày 28 tháng 9 tại Verona, mặc dù chiến thắng bởi Chievo 2-1, dẫn đến thua 3-2 chung cuộc và đội bóng bị loại.
|
||||
Vào ngày 16 tháng 10 năm 2006, sau thất bại 1-0 với Torino, huấn luyện viên trưởng Giuseppe Pillon đã bị sa thải và được thay thế bởi Luigi Delneri, một trong những biểu tượng ban đầu của "phép lạ Chievo", người đã dẫn dắt câu lạc bộ đến Serie A năm 2002.
|
||||
Vào ngày 27 tháng 5 năm 2007, ngày diễn ra trận đấu cuối cùng của mùa giải 2006-07 Chỉ cần một trận hòa trước Catania,đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong cuộc chiến trụ hạng, Chievo đã thua 2-0 trên sân trung lập ở Bologna. Chiến thắng của Parma, Siena và Reggina đã đẩy Chievo xuống Serie B cho mùa giải 2007-08 sau sáu mùa giải ở hạng đấu cao nhất.
|
||||
Ngay cả khi là một đội Serie A tương đối thành công, câu lạc bộ chỉ có trung bình 9.000 đến 10.000 người hâm mộ và được giữ nguyên chủ yếu bằng tiền từ bản quyền truyền hình, không có số lượng người ủng hộ người hâm mộ như Hellas, đội lâu đời nhất ở Verona. Sự khác biệt giữa số người ủng hộ của các câu lạc bộ đã được nêu rõ trong các trận derby địa phương được chơi trong mùa 2001-05 tại sân vận động chung của câu lạc bộ khi, đối với đội "nhà" của Chievo, các cổ động viên của Chievo ngồi ở cuối sân (khu vực của những người ủng hộ sân vận động trong những năm qua được cho là "của họ", trên thực tế, tên của phe ủng hộ chính là "Phía Bắc", phía sân vận động thường được giao cho những người ủng hộ đội khách), trong khi hầu hết những người còn lại ghế sân vận động đã được giao cho những người ủng hộ Hellas.
|
||||
Một năm với "Cadetti" ("2007-08").
|
||||
Chievo đã nhanh chóng quay trở lại sau sự thất vọng của sự xuống hạng của họ vào ngày cuối cùng của 2006-07, để ngay lập tức trở lại Serie A. Sau sự ra đi dự kiến của một số cầu thủ chất lượng hàng đầu bao gồm Franco Semioli, Salvatore Lanna, Matteo Brighi, Paolo Sammarco và Erjon Bogdani, người quản lý Delneri cũng chia tay câu lạc bộ. Giuseppe Iachini thay thế anh ta và đội trưởng, Lorenzo D'Anna, nhường chỗ cho Sergio Pellissier ở cuối thị trường chuyển nhượng. Một đội hình mới đã được xây dựng, đáng chú ý nhất là sự xuất hiện của các tiền vệ Maurizio Ciaramitaro và Simone Bentivoglio, hậu vệ César và tiền đạo Antimo Iunco. Đây thân mới của "Gialloblu" đã lên ngôi vô địch mùa đông (cùng với Bologna), trên đường đến suất thăng hạng tại vòng 41 sau trận hòa 1-1 tại Grosseto để lại cho họ bốn điểm rõ ràng so với vị trí thứ ba Lecce khi giải đấu chỉ còn một trận đấu còn lại. Ngoài chiến thắng thăng hạng, họ còn được trao tặng chiếc cúp Ali della Vittoria vào ngày cuối cùng của mùa giải, danh hiệu giải đấu đầu tiên của họ dưới bất kỳ hình thức nào trong 14 năm.
|
||||
Quay trở lại Serie A (2008-2019).
|
||||
Trong mùa giải đầu tiên của họ trở lại Serie A, Chievo ngay lập tức vật lộn trong giải đấu dẫn đến việc Iachini bị sa thải vào tháng 11 và thay thế ông với ông chủ cũ Parma Domenico Di Carlo. Sau sự trở lại của Di Carlo, Chievo đã có được sự hồi sinh đáng chú ý, đã đưa "gialloblu" ra khỏi khu vực xuống hạng sau khi chỉ thu được chín điểm từ 17 trận đấu đầu tiên của họ. Các trận đấu nổi bật bao gồm thất bại 3 - 0 của Lazio (đội sau đó đã giành danh hiệu Coppa Italia năm 2008-09) tại Stadio Olimpico, và trận hòa 3-3 ly kỳ trước Juventus, trong đó đội trưởng và tiền đạo lâu năm của Chievo là Sergio Pellissier để hoàn thành hat-trick trong sự nghiệp đầu tiên của mình. Một loạt các trận hòa khó khăn chống lại các câu lạc bộ hàng đầu Roma, Internazionale và Genoa trong giai đoạn cuối cùng của mùa giải đã củng cố vị trí của "Ceo" bên ngoài khu vực xuống hạng vị trí ở lại giải đấu được xác nhận ở vòng 37 với trận hòa trên sân nhà trước Bologna. Một đội hình hầu như không thay đổi kiếm được sự an toàn trong mùa giải tiếp theo với bốn trận đấu dự phòng, và do đó Chievo là một phần của Lega Calcio Serie A khai mạc vào năm 2010-11, mùa thứ ba liên tiếp của họ (và mùa thứ chín trong mười năm qua) trong giải đấu hàng đầu của bóng đá Ý.
|
||||
Màu sắc và huy hiệu.
|
||||
Màu sắc ban đầu của câu lạc bộ là màu xanh và trắng, không phải màu xanh và màu vàng hiện tại. Biệt danh lịch sử của câu lạc bộ là "Gialloblu" (từ màu của câu lạc bộ là màu vàng và màu xanh), mặc dù trong suốt bóng đá Ý, đội bóng của xứ Verona được công nhận bởi hầu hết người hâm mộ là "Gialloblu" là Hellas Verona. Những người hâm mộ địa phương thường gọi câu lạc bộ đơn giản là "Ceo", đó là Venetian cho Chievo. Câu lạc bộ bây giờ đôi khi được gọi là "I Mussi Volanti" ("Những "con lừa" bay" theo phương ngữ của vùng Venice). Biệt danh "Những con lừa bay" ban đầu được sử dụng bởi những người hâm mộ từ đối thủ crosstown Hellas để chế giễu Chievo. Hai câu lạc bộ gặp nhau lần đầu tiên ở Serie B vào giữa những năm 1990, với Hellas hô vang "Quando i mussi volara, il Ceo ở Serie A" - "Những con lừa sẽ bay trước khi Chievo ở Serie A." Tuy nhiên, khi Chievo được thăng hạng lên Serie A vào cuối mùa 2000-01 Serie B, người hâm mộ Chievo bắt đầu tự gọi mình là "Những chú lừa bay".
|
||||
Logo ủa câu lạc bộ hiện tại đại diện cho Cangrande I della Scala, một lãnh chúa thời trung cổ của thành phố Verona.
|
||||
Sân vận động.
|
||||
Sân vận động Marcantonio Bentegodi là một sân vận động ở Verona, Ý. Đây cũng là quê hương của đối thủ thành phố Verona, Hellas Verona.
|
||||
Được khánh thành như một cơ sở tân tiến và là một trong những địa điểm tốt nhất của Ý vào năm 1963, sân vận động đã xuất hiện quá mức cho một đội bóng (Hellas) trong 35 năm thi đấu tại Serie B. Sân được cải tạo để tổ chức FIFA World Cup 1990 bao gồm một tầng phụ và một mái nhà để bao gồm tất cả các phần, cải thiện tầm nhìn, kết nối giao thông công cộng, đường cao tốc đô thị kết nối trung tâm thành phố với sân vận động và lối ra và dịch vụ đường cao tốc Verona Nord.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,27 @@
|
|||
A.C. Montichiari
|
||||
|
||||
Associazione Calcio Montichiari là một câu lạc bộ bóng đá Ý có trụ sở tại Montichiari, Lombardy.
|
||||
Chủ sở hữu và chủ tịch cuối cùng lần lượt là Francesco De Pasquale và Maurizio Soloni.
|
||||
Vào năm 2012, Carpenedolo từ thị trấn gần đó, đã chuyển danh hiệu thể thao của mình cho Montichiari như một đội kế thừa tinh thần, cụ thể là FC Atletico Montichiari.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
AC Montichiari.
|
||||
Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1928.
|
||||
Từ 2006-2007 đến 2008-09.
|
||||
Trong mùa giải 2006-07 Serie C2, Montichiari kết thúc thứ 16 và buộc phải thi đấu ở vòng playoff xuống hạng. Đội đã xuống hạng Serie D, là đội được xếp hạng thấp hơn sau trận đấu hai lượt với tỷ số hòa 1-1 trước Portogruaro, đội xếp thứ 15 thấp hơn đối thủ.
|
||||
Trong mùa giải 2007-08 Serie D, Montichiari kết thúc thứ 2 tại Girone D, đủ điều kiện cho vòng playoff thăng hạng. Là một đội vào bán kết play-off, đội đã thăng hạng lênSerie C2, bây giờ được gọi là Lega Pro Seconda Divisione, là một trong 5 đội hàng đầu trong vòng playoff thăng hạng.
|
||||
Trong 2008-09 Lega Pro Seconda Divisione đã xuống hạng một lần nữa ở Serie D.
|
||||
Scudetto Dilettanti 2009-10.
|
||||
Hiện tại, đội trở lại Lega Pro Seconda Divisione sau khi giành chiến thắng tại 2009-10 Serie D nhóm C, chinh phục cả Scudetto Dilettanti.
|
||||
Từ 2010-11 đến 2011-12 tại Lega Pro Seconda Divisione.
|
||||
Mùa 2010-11 câu lạc bộ được xếp hạng 8.
|
||||
Trong mùa giải 2011-12, câu lạc bộ đã được xếp hạng 18 và vì thế đã xuống hạng Serie D.
|
||||
Giải thể.
|
||||
Vào mùa hè 2012, đội không tham gia Serie D và bị loại khỏi hệ thống bóng đá Ý.
|
||||
Màu sắc và huy hiệu.
|
||||
Màu của đội là đỏ và xanh.
|
||||
Sân vận động.
|
||||
Đôi thi đấu tại Stadio Romeo Menti ở Montichiari, có sức chứa 2.500.
|
||||
Bóng đá ở Montichiari bây giờ.
|
||||
FC Atletico Montichiari.
|
||||
Hiện tại, đội chính của thị trấn Montichiari là Atletico Montichiari, cựu "Carpenedolo", vào mùa hè 2012 đã chuyển đến thành phố này và đổi tên theo tên hiện tại.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,14 @@
|
|||
A.C. Renate
|
||||
|
||||
Associazione Calcio Renate là một câu lạc bộ bóng đá Ý có trụ sở tại Renate, Lombardy.
|
||||
Câu lạc bộ chơi các trận đấu trên sân Stadio Città di Meda ở Meda thay vì sân nhà của họ, Stadio Mario Riboldi ở Renate, để tuân thủ các tiêu chí của sân vận động Lega Pro.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1947 với tên "Unione Sportiva Renatese".
|
||||
Vào năm 1961, câu lạc bộ đã đổi tên với Associazione Calcio Renate.
|
||||
Lega Pro Seconda Divisione.
|
||||
Vào ngày 4 tháng 8 năm 2010, câu lạc bộ lần đầu tiên được nhận vào các giải đấu chuyên nghiệp mặc dù kết thúc thứ 5 ở bảng B trong mùa giải 2009-10 Serie D để lấp đầy một trong mười sáu vị trí khuyết cho mùa giải Lega Pro Seconda Divisione 2010-11 mùa giải sau sự phá sản và bất thường của các câu lạc bộ khác. Đội đã kết thúc mùa thứ năm của họ ở bảng A và kết thúc ở vị trí thứ 2 trong 2013-2014 đảm bảo một vị trí trong bộ phận Lega Pro thống nhất khai mạc cho 2014-15.
|
||||
Serie C.
|
||||
Câu lạc bộ đã duy trì vị trí của họ trong giải hạng ba của hệ thống giải bóng đá Ý kể từ 2014-15 và hiện đang thi đấu ở bảng B của Serie C.
|
||||
Màu sắc và huy hiệu.
|
||||
Màu sắc của đội là xanh và đen.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,20 @@
|
|||
A.C. Voghera
|
||||
|
||||
Associazione Calcio Voghera là một câu lạc bộ bóng đá Ý, có trụ sở tại Voghera, Lombardy. Đội thi đấu tại Stadio Comunale, ở Voghera, với 4.000 chỗ ngồi.
|
||||
Thành lập.
|
||||
Associazione Vogherese Calcio được thành lập vào ngày 26 tháng 11 năm 1919 tại "Trattoria Pistone".
|
||||
Sau một tá chức vô địch giữa giải hạng hai và hạng nhất, năm 1930, Vogherese đã thua trận play-off thăng hạng Serie B ở Piacenza với tỷ số 3-2.
|
||||
Năm 1932, đội tuyển quốc gia Ý đã chơi một trận giao hữu ở Voghera, thắng 6-2.
|
||||
Vào cuối những năm 1930 cho đến năm 1942, Vogherese được gọi là "VISA Voghera", chỉ trở lại "AVC Vogherese" trong mùa giải 1942-43.
|
||||
Giữa năm 1945 và 1948 là đỉnh cao của bóng đá ở Voghera với ba mùa liên tiếp ở Serie B. Sau đó, xuống hạng Serie C vào những năm 1950, vào năm 1959, đội bóng đã trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng dẫn đến sự chấm dứt.
|
||||
Thành lập lại.
|
||||
Để tiếp nối truyền thống bóng đá của AC Voghera, "Associazione Ragazzi Cairoli", được thành lập vào năm 1948 đã thay thế Vogherese, chỉ phục hồi vào năm 1994, tên của công ty phá sản, cạnh tranh trong giải vô địch nghiệp dư của Lombardy cho đến khi trở lại Serie D.
|
||||
Vào cuối mùa giải 1980-81, đội đã thăng hạng lên Serie C2, trong đó nó vẫn duy trì cho đến mùa giải 1987-88.
|
||||
Xuống Serie D, đội vẫn thi đấu giữa giải đấu này và Serie C2: rớt khỏi C2 vào cuối mùa giải 1998-99.
|
||||
Vào năm 2005, đội sau khi kết thúc mùa giải ở vị trí thứ ba, đã giành chiến thắng trong giải đấu này, nhưng điều này là không đủ để có được sự trở lại Serie C2.
|
||||
Trong mùa giải 2010-11, Voghera đã giành quyền tham gia vào vòng play-off thăng hạng Serie D tiến qua vòng bảng tới bán kết, nơi đội đã bị loại bởi Rimini.
|
||||
Giải thể.
|
||||
Vào mùa hè 2013, câu lạc bộ đã không thể tham gia Serie D 2013-2014 và sau đó đã bị giải thể.
|
||||
Màu sắc và huy hiệu.
|
||||
Màu của đội là đỏ và đen.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,19 @@
|
|||
Đa dạng sinh học toàn cầu
|
||||
|
||||
Đa dạng sinh học toàn cầu là thước đo đa dạng sinh học trên hành tinh Trái Đất và được định nghĩa là tổng số biến thể của các dạng sống. Hơn 99% của tất cả các loài từng sống trên Trái Đất được ước tính là đã tuyệt chủng. Các ước tính về số lượng loài hiện nay trên Trái Đất nằm trong khoảng từ 2 triệu đến 1000 tỉ, trong đó khoảng 1,74 triệu đã được lập cơ sở dữ liệu cho đến nay và hơn 80% vẫn chưa được mô tả. Dạo gần đây, vào tháng 5 năm 2016, các nhà khoa học đã báo cáo rằng 1 nghìn tỷ loài được ước tính hiện có trên Trái Đất mới chỉ một phần nghìn của một phần trăm đã được mô tả. Tổng số lượng các cặp base DNA trên Trái Đất, ước tính gần đúng với đa dạng sinh học toàn cầu, ước tính là 5.0 x 10 37, và nặng 50 tỷ tấn. Trong khi đó, tổng khối lượng của sinh quyển được ước tính là khoảng 4 TtC (nghìn tỷ tấn carbon).
|
||||
Trong các nghiên cứu liên quan khác, khoảng 1,9 triệu loài còn tồn tại được cho là đã được mô tả đến nay, nhưng một số nhà khoa học tin rằng 20% là cùng loài, giảm tổng số loài được mô tả hợp lệ xuống còn 1,5 triệu. Vào năm 2013, một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science ước tính có khoảng 5 ± 3 triệu loài còn tồn tại trên Trái Đất. Một nghiên cứu khác, được công bố vào năm 2011 bởi PLoS Biology, ước tính có 8,7 triệu ± 1,3 triệu loài sinh vật nhân chuẩn trên Trái Đất. Khoảng 250.000 loài hóa thạch hợp lệ đã được miêu tả, nhưng đây được cho là một tỷ lệ nhỏ trong số tất cả các loài đã từng tồn tại.
|
||||
Đa dạng sinh học toàn cầu bị ảnh hưởng bởi sự tuyệt chủng và đặc tính. Tỷ lệ tuyệt chủng nền khác nhau giữa các đơn vị phân loại nhưng người ta ước tính rằng mỗi loài tồn tại được 1 triệu năm thì có một tuyệt chủng. Ví dụ, các loài động vật có vú thường tồn tại trong 1 triệu năm. Đa dạng sinh học đã phát triển và thu hẹp trong quá khứ của Trái Đất do (có lẽ) các yếu tố phi sinh học như các sự kiện tuyệt chủng gây ra bởi những thay đổi địa chất nhanh chóng từ khí hậu. Biến đổi khí hậu 299 triệu năm trước là một trong những sự kiện như vậy. Khí hậu lạnh và khô đã dẫn đến sự sụp đổ thảm khốc của rừng nhiệt đới và sau đó là sự mất mát lớn về tính đa dạng, đặc biệt là các loài lưỡng cư.
|
||||
Các tác nhân ảnh hưởng đến đa dạng sinh học.
|
||||
Thay đổi môi trường sống (xem: phân chia sinh cảnh hoặc phá hủy môi trường sống) là động lực quan trọng nhất hiện nay ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, vì khoảng 40% rừng và môi trường sống không bị đóng băng đã được chuyển đổi thành đất trồng trọt hoặc đồng cỏ.<ref name="10.1146/annurev-environ-042911-093511"></ref> Các nguyên nhân khác là: khai thác quá mức, ô nhiễm, các loài xâm lấn và biến đổi khí hậu.
|
||||
Đo tính đa dạng.
|
||||
Đa dạng sinh học thường được biểu thị bằng sự phong phú của một khu vực địa lý, với một số sự đề cập đến quy mô thời gian. Các loại đa dạng sinh học bao gồm phân loại học hoặc loài, đa dạng sinh thái, hình thái và di truyền. Phân loại đa dạng, tức là số loài, chi, họ là loại được đánh giá là phổ biến nhất. Một số nghiên cứu đã cố gắng làm rõ mối quan hệ giữa các loại đa dạng khác nhau. Ví dụ, nhà sinh vật học Sarda Sahney đã tìm thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa sự phân loại của động vật có xương sống và sự đa dạng sinh thái.
|
||||
Các loài đã biết.
|
||||
Chapman, năm 2005 và 2009 đã cố gắng biên soạn số liệu thống kê gần đây có lẽ là toàn diện nhất về số lượng các loài còn tồn tại, dựa trên một loạt các nguồn đã xuất bản và chưa được xuất bản, và đã đưa ra một con số ước tính khoảng 1,9 triệu đơn vị phân loại được mô tả, như chống lại tổng số có thể từ 11 đến 12 triệu loài dự kiến (được mô tả cộng với chưa mô tả), mặc dù các giá trị được báo cáo cho loại sau là rất khác nhau. Điều quan trọng cần lưu ý là trong nhiều trường hợp, các giá trị được đưa ra cho các loài "Được mô tả" chỉ là ước tính (đôi khi là giá trị trung bình của các số liệu được báo cáo trong tài liệu) vì đối với nhiều nhóm cao hơn, đặc biệt, danh sách đầy đủ các tên loài hợp lệ hiện không tồn tại. Đối với các loài hóa thạch, con số chính xác hoặc thậm chí gần đúng khó tìm hơn; Raup, 1986 bao gồm dữ liệu dựa trên tổng hợp 250.000 loài hóa thạch, vì vậy con số thực sự chắc chắn có phần cao hơn con số này. Cũng cần lưu ý rằng số lượng loài được mô tả đang tăng lên khoảng 18.000–19.000 loài còn tồn tại và tiếp cận 2.000 loài hóa thạch mỗi năm vào thời điểm hiện tại, Số lượng "tên" loài được công bố cao hơn số lượng các loài được mô tả, đôi khi đáng kể, dựa trên công bố, theo thời gian, của nhiều tên (danh pháp đồng nghĩa) cho cùng một đơn vị phân loại được chấp nhận trong nhiều trường hợp. Dựa trên báo cáo của Chapman (2009), số lượng ước tính các loài còn tồn tại và được mô tả tính đến năm 2009 có thể được chia nhỏ như sau:
|
||||
Ước tính tổng số loài.
|
||||
Tuy nhiên, "tổng" số loài của một số đơn vị phân loại có thể cao hơn nhiều.
|
||||
Năm 1982, Terry Erwin đã công bố một ước tính về sự phong phú của 30 triệu loài trên toàn cầu, bằng cách suy luận từ số lượng bọ cánh cứng được tìm thấy trong một loài cây nhiệt đới. Trong một loài cây, Erwin đã xác định được 1200 loài bọ cánh cứng, trong đó ông ước tính 163 loài chỉ được tìm thấy ở loại cây đó. Với 50.000 loài cây nhiệt đới được mô tả, Erwin cho rằng có gần 10 triệu loài bọ cánh cứng ở vùng nhiệt đới. Năm 2011, một nghiên cứu được công bố trên tạp chí PLoS Biology ước tính có 8,7 triệu ± 1,3 triệu loài sinh vật nhân chuẩn trên Trái Đất. Một nghiên cứu năm 2016 kết luận rằng Trái Đất là nơi sinh sống của 1 nghìn tỷ loài.
|
||||
Chỉ số đa dạng sinh học toàn cầu.
|
||||
Sau khi Công ước về Đa dạng sinh học được ký kết vào năm 1992, bảo tồn sinh học đã trở thành một ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế. Có một số chỉ số được sử dụng để mô tả các xu hướng trong đa dạng sinh học toàn cầu. Tuy nhiên, không có chỉ số nhất định cho tất cả các loài còn tồn tại vì không phải tất cả đều đã được mô tả và đo lường theo thời gian. Có nhiều cách khác nhau để đo lường những thay đổi trong đa dạng sinh học. Chỉ số Hành tinh Sống (LPI) là một chỉ số dựa trên quần thể, kết hợp dữ liệu từ các quần thể cá thể của nhiều loài động vật có xương sống để tạo ra một chỉ số duy nhất. Chỉ số LPI toàn cầu cho năm 2012 giảm 28%. Ngoài ra còn có các chỉ số phân biệt các loài ôn đới và nhiệt đới cho các loài sinh vật biển và trên cạn. Chỉ số Danh sách Đỏ dựa trên Danh sách Đỏ của IUCN về các loài bị đe dọa và đo lường những thay đổi trong tình trạng bảo tồn theo thời gian và hiện bao gồm các đơn vị phân loại đã được phân loại hoàn chỉnh: động vật có vú, chim, lưỡng cư và san hô. Chỉ số Chim hoang dã Toàn cầu là một chỉ số khác cho thấy xu hướng dân số của các nhóm chim hoang dã trên quy mô khu vực từ dữ liệu thu thập được trong các cuộc điều tra chính thức. Những thách thức đối với các chỉ số này do tính sẵn có của dữ liệu là khoảng cách phân loại và khoảng cách thời gian của mỗi chỉ số. Đối tác Chỉ số Đa dạng sinh học được thành lập vào năm 2006 để hỗ trợ phát triển, nâng cao chỉ số đa dạng sinh học và tăng cường sự hiện có của các chỉ số.
|
||||
Tầm quan trọng của đa dạng sinh học.
|
||||
Đa dạng sinh học rất quan trọng đối với con người thông qua các dịch vụ và hàng hóa của hệ sinh thái. Các dịch vụ hệ sinh thái được chia thành: các dịch vụ điều tiết như lọc không khí và nước, cung cấp dịch vụ (hàng hóa), chẳng hạn như nhiên liệu và thực phẩm, các dịch vụ văn hóa và dịch vụ hỗ trợ như quá trình thụ phấn và chu trình dinh dưỡng.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,12 @@
|
|||
Đà Giang, Phượng Hoàng
|
||||
|
||||
Đà Giang trấn () là một thị trấn cổ và là huyện lỵ của huyện Phượng Hoàng, thuộc châu tự trị
|
||||
Tương Tây, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Thị trấn này có diện tích với dân số 112.200 (tính đến năm 2015). Về mặt hành chính, nó chia thành 29 làng và 7 khu, trung tâm của thị trấn nằm ở Phượng Hoàng nam lộ (tiếng Trung: 凤凰南路). Thị trấn này nổi tiếng với "Phượng Hoàng cổ trấn" (nguyên văn tiếng Hán là Phượng Hoàng cổ thành; 凤凰古城), một trong những điểm du lịch được xếp hạng 4A và quan trọng nhất ở Hồ Nam.
|
||||
Phượng hoàng cổ trấn được liệt kê vào danh sách di sản thế giới dự kiến của UNESCO theo hạng mục di sản văn hóa vào ngày 28 tháng 3 năm 2008. Ngày nay, nơi này thu hút rất nhiều lượt khách du lịch mỗi năm.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
Đà Giang là một thị trấn cổ của Ngũ Trại Ty thành (五寨司城), thành trì thủ phủ của Thổ ty Ngũ Trại dưới thời nhà Nguyên. Phượng Hoàng doanh được thành lập vào năm 1704 sau đó trở thành Phượng Hoàng quan sảnh vào năm 1736 trước khi trở thành Ban chỉ huy quân sự Phượng Hoàng. Đến năm 1912, thành lập huyện Phượng Hoàng và thị trấn này sau đó trở thành huyện lỵ của huyện. Năm 1942, Trấn Can trấn được đổi tên thành Đà Giang trấn, theo tên của con sông Đà Giang chảy qua. Năm 2005, thị trấn được mở rộng lên thành với 6 khu và 24 làng (tính đến năm 2011). Đến ngày 30 tháng 11 năm 2015, Quan Trang hương tiếp tục được xác nhập, nâng tổng diện tích thị trấn thành
|
||||
Địa lý.
|
||||
Thị trấn này nằm ở phía đông của huyện Phượng Hoàng.
|
||||
Những điểm du lịch nổi tiếng.
|
||||
Đây là một trong những thị trấn văn hóa lịch sử nổi tiếng ở Trung Quốc với Vạn Lý Trường Thành Miêu Giang, những ngôi nhà treo leo, quần thể kiến trúc cổ và hai di tích lịch sử văn hóa quốc gia là Phượng Hoàng cổ thành (凤凰古城堡) và Khu cư trú cũ của Thẩm Tòng Văn (沈从文故居) đều là những địa điểm thu hút khách du lịch.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,12 @@
|
|||
Đá Hoa Lau
|
||||
|
||||
Đá Hoa Lau là một rạn san hô vòng thuộc cụm An Bang (cụm Thám Hiểm) của quần đảo Trường Sa. Đá này nằm cách đảo An Bang khoảng 60,4 hải lý (111,8 km) về phía đông nam.
|
||||
Đá Hoa Lau là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Malaysia và Trung Quốc, trong khi Philippines chính thức không tuyên bố chủ quyền đối với rạn vòng này (xem thêm Nhóm đảo Kalayaan). Hiện Malaysia đang kiểm soát đá Hoa Lau.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
Ngày 20 tháng 9 năm 1979, Malaysia công bố các rạn san hô nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Tuân theo quyết định của Nội các, người ta đã dựng một tháp kỉ niệm trên rạn vòng này vào ngày 21 tháng 6 năm 1980. Tháng 5 năm 1983 (có nguồn ghi tháng 6), Tổng Tham mưu trưởng quân đội Malaysia đã chỉ huy cuộc hành quân ra chiếm đóng đá Hoa Lau với khoảng mười tám binh sĩ thuộc lực lượng PASKAL ("Lực lượng Chiến tranh Đặc biệt thuộc Hải quân"). Sự kiện Malaysia chiếm đá này được báo chí ở Hà Nội (Việt Nam) xác nhận vào tháng 9 năm 1983.
|
||||
Ngày 5 tháng 3 năm 2009, Thủ tướng Malaysia Abdullah bin Ahmad Badawi đã đến đá Hoa Lau và tuyên bố chủ quyền của nước này đối với đá Hoa Lau và vùng biển phụ cận.
|
||||
Cơ sở hạ tầng.
|
||||
Khoảng những năm 1984-1985, Malaysia nỗ lực kiến thiết một hòn đảo nhân tạo bằng cách nạo vét cát và san hô ở khu trung tâm của đá Hoa Lau rồi đắp lên góc đông nam, nơi (từng) có những tảng đá cao từ 1,5 đến 3 m. Trên đảo có một đường băng dài 1.067 m (hay 1.400 m) với các công trình như tháp điều khiển không lưu, nhà chứa máy bay... Có hai máy phát điện và hai nhà máy khử nước mặn bằng phương pháp thẩm thấu ngược. Ngoài căn cứ hải quân, trên đảo còn có toà nhà nghiên cứu thuộc Bộ Ngư nghiệp Malaysia.
|
||||
Du lịch.
|
||||
Năm 1993, Malaysia khai trương dịch vụ du lịch dành cho khách yêu thích lặn biển. Khu nghỉ mát mang tên "Avillion Layang Layang" tại đây có tám mươi sáu phòng đạt tiêu chuẩn ba sao, một trung tâm lặn biển (thành viên của PADI, Hiệp hội Hướng dẫn viên Lặn biển Chuyên nghiệp) cùng một nhà hàng hai trăm chỗ ngồi, một hồ bơi và cửa hàng đồ lưu niệm. Tính đến năm 2006, khu nghỉ mát đã thu hút 1.457 du khách, chủ yếu đến từ Nhật Bản, Pháp, Hàn Quốc và Trung Quốc. Đi máy bay từ thành phố Kota Kinabalu (thủ phủ bang Sabah) đến Hoa Lau mất một giờ đồng hồ.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,16 @@
|
|||
A Khuê
|
||||
|
||||
A Khuê (1948 – 13 tháng 8 năm 2009), tên thật Hoàng Văn Phúc là một nhà thơ, nhạc sĩ của Việt Nam. Ông quê ở huyện Tứ Kỳ, Hải Dương. Ông từng là chi hội trưởng Chi hội âm nhạc - điện ảnh - sân khấu của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bình Phước.
|
||||
Tiểu sử.
|
||||
A Khuê sinh ra trong gia đình truyền thống nghệ thuật. Cha ông là danh vĩ cầm Hoàng Liêu. Anh trai ông là nhạc sĩ Hoàng Lương. Từ nhỏ cha ông đã bắt ông học chơi vĩ cầm một thời gian. Thời thanh niên, ông từng đi chơi nhạc để kiếm tiền. Từ 1998, ông sinh sống cùng vợ con ở thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước cho đến lúc qua đời.
|
||||
Nghệ danh.
|
||||
A Khuê là nghệ danh mà nhà thơ, nhạc sĩ đặt theo tên một cô gái mà ông yêu khi ông 15 tuổi.
|
||||
Tác phẩm.
|
||||
Thơ.
|
||||
Ông có hơn ngàn bài thơ. Hai tập thơ nổi tiếng nhất của ông là "Lùa bò trong sương" và "Vàng bay"
|
||||
Bài thơ nổi tiếng nhất của ông đã được nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ thành nhạc đó là bài Về đây nghe em.
|
||||
Bài hát.
|
||||
Ông đã sáng tác hơn 300 ca khúc. Các ca khúc nổi tiếng bao gồm "Tình thiên thu", "Nhánh hoa xưa" (thơ Trương Đình Tuấn), "Bóng gương" (thơ Thái Thanh Nguyên), album "Mặt trời đã lên" (cùng nhạc sĩ Bạch Cung Thạnh)
|
||||
Qua đời.
|
||||
Ông qua đời do tai biến cấp tính lúc 20 giờ 30 phút ngày 13 tháng 8 năm 2009 tại Bệnh viện tỉnh Bình Phước, hưởng thọ 61 tuổi. Linh cữu của ông được quàn tại tư gia, và được an táng tại nghĩa trang xã Tiến Hưng, thị xã Đồng Xoài, Bình Phước.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
A La Già Da
|
||||
|
||||
A La Già Da (아시량국, 阿尸良國)), và Alla (안라, 安羅, An La), là một thành bang của liên minh Già Da vào thời Tam Quốc Triều Tiên. Lãnh thổ thành bang thuộc địa phận huyện Haman ngày nay. Khi chính sách đối ngoại mang tính đối đầu của Đại Già Da thất bại. A La Già Da và các chính sách ít mang tính đối đầu hơn của nó đã giúp đỡ liên minh trong thập niên 540.
|
||||
Trong thế kỷ thứ 6, liên minh Già Da không thể mạo hiểm để có thái độ thù địch với Tân La hay Bách Tế. A La Già Da đã đưa ra một thỏa thuận quan trọng trong nỗ lực theo đuổi các giải pháp ngoại giao nhằm duy trì nền độc lập của mình, bao gồm cả việc tổ chức đàm luận giữa Bách Tế, Tân La và Nụy Quốc (Nhật Bản).
|
||||
Liên minh Già Da đã bị suy yếu phần lớn vào thời điểm đó, các thành bang phía tây bắc của liên minh nằm dưới sự ảnh hưởng của Bách Tế trong khi các thành bang ở phía tây nam chịu ảnh hưởng của Tân La. A La Già Da tìm cách duy trì nền độc lập của mình bằng cách tự liên minh mình với Cao Câu Ly, và sau đó mời Cao Câu Ly xâm lược Bách Tế và năm 548. Nỗ lực nhằm làm suy yếu ảnh hướng của Bách Tế này đã không thành công khi Cao Câu Ly thất bại trong chiến tranh.
|
||||
Năm 553, Tân La đã đè bẹp Bách Tế trong một cuộc chiến và chiếm được khu vực Gyeonggi (bồn địa sông Hán), chấm dứt 120 năm liên minh giữa hai nước. Tân La bắt đầu sáp nhập các thành bang Già Da dã chịu ảnh hưởng của mình từ trước và xâm chiếm các thành bang còn lại nằm trong tầm ảnh hưởng của Bách Tế. A La Già Da đầu hàng Tân La vào năm 559.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
A Lặc Tháp Luân
|
||||
|
||||
A Lặc Tháp Luân (chữ Hán: 阿勒塔伦; bính âm: "Ā lēi tǎ lún"; tiếng Anh: Aletalun hay Alaltun), còn gọi là "A Lặc Tháp Lỗ Hãn" (阿勒塔鲁罕), "A Nhi Đáp Lỗ Hắc" (阿儿答鲁黑), "Án Tháp Luân" (按塔伦), công chúa Mông Cổ, nữ thủ lĩnh của Duy Ngô Nhĩ, là con gái của Thành Cát Tư Hãn và chánh thất hoàng hậu Bột Nhi Thiếp (孛兒帖).
|
||||
Vì là con gái của chính cung Bột Nhi Thiếp, công chúa A Lặc Tháp Luân cùng chị em ruột của mình có nhiều quyền lợi và đặc quyền hơn những công chúa do thứ thất và hậu cung sinh ra. Những công chúa do chính cung sinh ra sẽ kết hôn với thủ lĩnh của những bộ tộc quan trọng trong việc mở rộng Đế quốc Mông Cổ. Họ cũng được mong đợi rằng sẽ giúp đỡ vua cha Thành Cát Tư Hãn bằng cách nắm giữ chính quyền trong khi chồng họ sẽ phục vụ hoàng đế với tư cách "hoàng tế" (hay" phò mã").
|
||||
Thái Xuất (泰出) — thủ lĩnh của bộ tộc người Duy Ngô Nhĩ vốn là kình địch của Hãn quốc Khách Lạt Khiết Đan (nhà Tây Liêu) — đã đề nghị một cuộc hôn nhân liên minh với Thành Cát Tư Hãn, với mong muốn trở thành 'nhi tử thứ năm"' của ông. Thái Xuất được mời đến để gặp Đại Hãn một mình, và liên minh được chấp nhận liền sau đó. Khi Thành Cát Tư Hãn cho công chúa A Lặc Tháp Luân hạ giá lấy Thái Xuất, ông đã nói rõ rằng nhiệm vụ đầu tiên của công chúa là cho Đế quốc. Vùng đất của người Duy Ngô Nhĩ sau đó đã trở thành trung tâm truyền thông của toàn Mông Cổ.
|
||||
Sau cái chết của anh trai bà Oa Khoát Đài Hãn năm 1241, A Lặc Tháp Luân bị buộc tội đầu độc anh trai mình bởi phe phái của ông và liền bị xử tử ngay sau đó mà không cần xét xử. Quyền cai trị Duy Ngô Nhĩ rơi vào tay con gái của Oa Khoát Đài. Việc xử tử công chúa mà không qua xét xử sau này đã bị lên án và chỉ trích bởi Hốt Tất Liệt vì nó chống lại với ý của tiên đế Thành Cát Tư Hãn.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,11 @@
|
|||
A Lão Ngõa Đinh
|
||||
|
||||
A Lão Ngõa Đinh, (Al al-Din, ; ? - 1312), là kỹ sư, quan lại, tướng lĩnh nhà Nguyên trong lịch sử, một trong những nhà phát minh ra Hồi hồi pháo (回回炮).
|
||||
Tiểu sử.
|
||||
A Lão Ngõa Đinh, người Hồi Hồi (tức người Hồi), thuộc nhóm Sắc mục, quê ở Mộc Phát Lý, Tây Vực (nay là Mosul, Iraq).
|
||||
Năm 1271, sau khi xưng đế, nhằm phục vụ cho cuộc chiến tiêu diệt Nam Tống, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt hướng tông vương A Bất Ca (Abaqa) của Y Nhi hãn quốc đòi thợ thủ công để làm vũ khí công thành. A Bất Ca đồng ý, bắt Diệc Tư Mã Nhân và A Lão Ngõa Đinh đem cả nhà cưỡi ngựa từ Y Nhi đến kinh đô Đại Đô (nay thuộc Bắc Kinh). Khi đến, hai nhà được vua Nguyên ban cho quan xá. Hốt Tất Liệt sau đó yêu cầu hai người lắp ghép và thí nghiệm Hồi hồi pháo (một loại máy bắn đá) ở mảnh đất nằm trước ngọ môn của Đại Đô.
|
||||
Năm 1274, quân Nguyên vượt sông, lần lượt tiến công Hàng Châu, Đàm Châu, Tĩnh Giang... A Lão Ngõa Đinh được điều phối dưới trướng danh tướng Bình chương A Lý Hải Nha. Trong các trận chiến này, A Lão Ngõa Đinh đều là người chỉ huy Hồi hồi pháo, lập được nhiều chiến công.
|
||||
Năm 1278, A Lão Ngõa Đinh được phong Tuyên vũ tướng quân, quản quân tổng quản. Năm 1280, sau khi Nam Tống diệt vong, A Lão Ngõa Đinh được ban thưởng 5.000 quan tiền giấy. Năm 1281, nhậm chức đồn điền ở Nam Kinh.
|
||||
Năm 1285, A Lão Ngõa Đinh giữ chức Phó vạn hộ thuộc Hồi hồi pháo thủ quân tượng thượng vạn hộ phủ (回回砲手军匠上万户府). Năm 1300, cáo lão về hưu, con trai là Phú Mưu Chích (富謀只) thế tập Phó vạn hộ.
|
||||
Năm 1312, Phú Mưu Chích chết, cháu nội của A Lão Ngõa Đinh là Mã Cáp Mã Sa (馬哈馬沙, Mahasha) thế tập.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
Đá Lồi
|
||||
|
||||
Đá Lồi là một rạn san hô vòng thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm, quần đảo Hoàng Sa. Đá này nằm cách đảo Quang Hoà thuộc khu trung tâm nhóm Lưỡi Liềm khoảng 14 hải lý (26 km) về phía nam. Đây được xem là rạn san hô lớn nhất quần đảo Hoàng Sa.
|
||||
Đá Lồi là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát đá này.
|
||||
Ở phía nam của đá Lồi, người ta đã tìm thấy một xác tàu đổ bộ tầm trung bị đắm của Pháp.
|
||||
Ngày 24 tháng 6 năm 2012, tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) quyết định thành lập bốn khu bảo tồn "di sản văn vật dưới nước" tại quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đá Lồi.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,13 @@
|
|||
Đá mài
|
||||
|
||||
Đá mài được sử dụng để mài các cạnh của dụng cụ và nông cụ bằng thép thông qua quá trình mài và mài giũa. Ví dụ về các vật dụng có thể mài bằng đá mài bao gồm kéo, lưỡi hái, dao, dao cạo và các công cụ như đục, dao cạo tay và lưỡi bào. Đá mài có nhiều hình dạng, kích thước và thành phần vật liệu. Đá có thể phẳng, để gia công các cạnh phẳng, hoặc được định hình cho các cạnh phức tạp hơn, chẳng hạn như những viên đá được kết hợp với một số công cụ điêu khắc gỗ hoặc đồ gỗ. Chúng có thể được làm từ vật liệu khai thác tự nhiên hoặc từ vật liệu nhân tạo.
|
||||
Đá mài thường có nhiều loại khác nhau, dùng để chỉ kích thước sạn của các hạt mài mòn trong đá. Kích thước hạt sạn được cho dưới dạng một con số, cho biết mật độ không gian của các hạt. Số cao hơn biểu thị mật độ cao hơn và do đó các hạt nhỏ hơn, dẫn đến bề mặt của vật được đánh bóng sẽ mịn hơn.
|
||||
Đá tự nhiên và đá nhân tạo.
|
||||
Nhà sử học La Mã Pliny đã mô tả việc sử dụng một số loại đá tự nhiên để mài trong Lịch sử tự nhiên của mình. Ông mô tả việc sử dụng cả đá dầu và đá nước và đưa ra vị trí của một số nguồn cổ xưa cho những viên đá này.
|
||||
Việc sử dụng đá tự nhiên để mài đã giảm dần với sự phổ biến rộng rãi của đá nhân tạo chất lượng cao, kích thước hạt phù hợp.
|
||||
Do đó, các mỏ Honyama huyền thoại ở Kyoto, Nhật Bản, đã bị đóng cửa từ năm 1967. Bỉ hiện chỉ có một mỏ duy nhất vẫn đang khai thác đá Coticules và các đối tác của Bỉ Blue Whetstone (BBW) của họ.
|
||||
Đá tổng hợp hiện đại nói chung có chất lượng tương đương với đá tự nhiên và thường được coi là vượt trội về hiệu suất mài do tính nhất quán của kích thước hạt và kiểm soát các đặc tính của đá. Ví dụ, hàm lượng tỷ lệ của các hạt mài mòn trái ngược với các vật liệu cơ bản hoặc "chất kết dính" có thể được kiểm soát để làm cho đá cắt nhanh hơn hoặc chậm hơn, như mong muốn.
|
||||
Đá tự nhiên thường được đánh giá cao về vẻ đẹp tự nhiên như đá và độ quý hiếm của chúng, làm tăng giá trị như những món đồ của các nhà sưu tập. Hơn nữa, mỗi loại đá tự nhiên là khác nhau, và hiếm có loại đá tự nhiên nào có chứa các hạt mài mòn ở kích thước sạn mịn hơn các loại đá nhân tạo hiện có.
|
||||
Một trong những loại đá mài tự nhiên được đánh giá cao nhất là "Bỉm đá" màu xám vàng, đã trở thành huyền thoại với góc cạnh mà nó có thể tạo ra cho lưỡi kiếm từ thời La Mã, và đã được khai thác trong nhiều thế kỷ từ Ardennes. Đá mài "Bỉ xanh" hơi thô hơn và phong phú hơn được tìm thấy trong tự nhiên với hình nón màu vàng ở các địa tầng liền kề; do đó đá mài hai mặt có sẵn, với đường nối tự nhiên giữa các lớp màu vàng và xanh lam. Chúng được đánh giá cao vì sự sang trọng và vẻ đẹp tự nhiên của chúng, đồng thời cung cấp cả bề mặt cắt nhanh để thiết lập góc xiên và bề mặt mịn hơn để tinh chỉnh nó. Loại đá này được coi là một trong những loại tốt nhất để mài dao cạo thẳng.
|
||||
Đá cứng ở Rừng Charnwood ở Tây Bắc Leicestershire, Anh, đã được khai thác trong nhiều thế kỷ, và là nguồn cung cấp đá mài và đá quern.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,4 @@
|
|||
A Man's a Man for A' That
|
||||
|
||||
"Is There for Honest Poverty" hay "A Man's a Man for A' That" là một bài hát tiếng Scotland do Robert Burns sáng tác năm 1795. Bài hát nổi tiếng vì chủ nghĩa quân bình và chủ nghĩa tự do mà nó thể hiện. Đây là một trong những ứng cử viên của quốc ca Scotland. Bài hát này được ca sĩ nhạc đồng quê Scotland Sheena Wellington biểu diễn tại Nghị viện Scotland vào ngày 1 tháng 7 năm 1999. Bài hát cũng được biểu diễn tại tang lễ của Donald Dewar, thủ hiến Scotland đầu tiên. Bài hát cũng được dịch sang một số thứ tiếng khác của châu Âu, ví dụ bài hát tiếng Đức "Trotz alledem und alledem" của Ferdinand Freiligrath viết sau cuộc cách mạng 1848 bùng nổ tại Đức. Bài hát này được Hannes Wader biểu diễn với cái tên "Trotz alledem". Cụm từ "pride o' worth" xuất hiện trên huy hiệu của Scottish Qualifications Authority.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,35 @@
|
|||
Đa Minh Đặng Văn Cầu
|
||||
|
||||
Đa Minh Đặng Văn Cầu (sinh ngày 17 tháng 7 năm 1962) là một Giám mục Công giáo người Việt. Ông hiện đảm nhận chức vụ Giám mục Chính tòa Giáo phận Thái Bình. Khẩu hiệu Giám mục của ông là: "Này con xin đến".
|
||||
Giám mục Đặng Văn Cầu sinh tại Thái Bình trong một gia đình Công giáo, từ sớm đã theo hỗ trợ mục vụ cho các linh mục Công giáo trong giáo phận. Sau khi thân mẫu qua đời, cậu bé Cầu theo chân linh mục Uyên đến sinh sống và học tập tại Tiểu chủng viện. Cậu sau đó trở thành nghĩa tử của Giám đốc Chủng viện Giuse Đinh Bỉnh, trước và sau khi vị này trở thành giám mục. Tiếp tục tu học tại Hà Nội sau cái chết của nghĩa phụ, chủng sinh Cầu được thụ phong linh mục tháng 3 năm 1996.
|
||||
Sau khi được thụ phong linh mục, Đa Minh Đặng Văn Cầu đảm nhận chức Chánh Văn phòng Tòa giám mục Thái Bình trước khi đi du học tại Pháp, tốt nghiệp văn bằng Cao học Mục vụ Huấn giáo năm 2005. Trở về Việt Nam, ông kiêm nhiệm thêm chức vụ Thư ký riêng của Giám mục Nguyễn Văn Sang. Rời Tòa giám mục, ông lần lượt đảm nhận các chức danh chánh xứ Văn Lăng, chánh xứ Cao Xá, Hạt trưởng giáo hạt Đông Hưng Yên, Đại diện Giám mục miền Hưng Yên.
|
||||
Linh mục Đặng Văn Cầu được bổ nhiệm làm Giám đốc Điều hành Đại chủng viện Thánh Tâm Thái Bình năm 2017, và trở thành người đại diện pháp luật cho chủng viện này theo văn bản chấp thuận cho mở đại chủng viện vào năm 2020. Cuối tháng 10 năm 2022, Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng đã bổ nhiệm linh mục Đặng Văn Cầu làm giám mục chính tòa giáo phận Thái Bình. Lễ truyền chức cho ông đã diễn ra vào cuối tháng 12 năm 2022.
|
||||
Đặng Văn Cầu là giám mục chính tòa thứ năm, và là giám mục quản nhiệm giáo phận Thái Bình thứ bảy kể từ khi chia tách năm 1936 từ giáo phận Bùi Chu với vị thế là Hạt Đại diện Tông Tòa (Địa phận Thái Bình). Ông là giám mục đầu tiên xuất thân từ giáo phận Thái Bình trở thành người quản lý giáo phận này.
|
||||
Thân thế và tu tập.
|
||||
Giám mục Đa Minh Đặng Văn Cầu sinh ngày 17 tháng 7 năm 1962 tại xã Đông Giang (nay là xã Hà Giang), huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, thuộc giáo xứ Lương Đống, giáo hạt Đông Hưng, giáo phận Thái Bình. Ông là con thứ tư trong một gia đình Công giáo đạo đức có năm người con. Bà cố là Maria Hoàng Thị Truất (khoảng 1916-1970), hành nghề buôn bán, kiêm nhiệm việc chuyển thư liên lạc cho giám mục Thái Bình Đa Minh Maria Đinh Đức Trụ với giám mục giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng. Với lời gợi ý của giám mục Trụ, cậu bé Cầu được gửi cậu dưới sự quản lý của linh mục Gioankim Trần Trọng Uyên. Linh mục Uyên lúc này là Quản lý Tiểu chủng viện Mỹ Đức, kiêm chánh xứ linh mục Lương Đống. Trong suốt thời kỳ này, cậu bé Cầu đóng vai trò là giúp lễ cho linh mục Uyên.
|
||||
Sau khi thân mẫu qua đời, Mồng 6 Tết năm 1971, cậu bé Đặng Văn Cầu chính thức đến sinh sống cùng linh mục Trần Trọng Uyên tại Tiểu chủng viện Mỹ Đức. Từ năm 1972 đến năm 1977, chủng sinh Đa Minh mãn nhiệm tu học tại Tiểu Chủng viện Mỹ Đức Thái Bình. Chủng sinh Cầu, kể từ năm 1978 trợ giúp linh mục Giám đốc Chủng viện Giuse Maria Đinh Bỉnh, do linh mục Uyên chuyển nhiệm sở. Linh mục Giám đốc Đinh Bỉnh kế nhiệm chức Giám mục chính tòa Thái Bình, chuyển sang sinh sống tại Tòa giám mục. Chủng sinh Đặng Văn Cầu chuyển đến trợ giúp mục vụ tại Tòa giám mục Thái Bình, với tư cách thư ký, giúp việc Văn phòng Tòa giám mục. Sáng 14 tháng 3 năm 1989, sau khi được giáo quyền và chính quyền chuẩn thuận cho nhập học tại Đại chủng viện Hà Nội Hà Nội. Giám mục Đinh Bỉnh đột ngột qua đời cùng đã ảnh hưởng đến việc chuyển đến học tại Đại chủng viện gặp khó khăn. Chủng sinh Cầu cũng là nghĩa tử của giám mục Đinh Bỉnh.
|
||||
Từ năm 1989 đến năm 1995, chủng sinh Đặng Văn Cầu tu học tại Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội, là chủng sinh khóa III của chủng viện này. Trong thời kỳ tu học, chủng sinh Cầu luôn được xếp loại "ưu". Trong thời kỳ này, chủng sinh Cầu còn là Thư ký riêng cho Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Hà Nội Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang.
|
||||
Linh mục.
|
||||
Ngày 9 tháng 3 năm 1996, phó tế Đa Minh Đặng Văn Cầu được thụ phong linh mục tại Nhà thờ chính tòa Thái Bình do Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang chủ phong. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm Chánh Văn phòng Tòa Giám mục Thái Bình. Tháng 8 năm 2000 đến năm 2005, ông được cử đi du học tại Đại học Công giáo Paris ("Institut Catholique de Paris"), nước Pháp, và tốt nghiệp với học vị Cao học Mục vụ Huấn giáo, "ưu hạng".
|
||||
Trở về nước năm 2006, linh mục Cầu tiếp tục giữ chức vụ Chánh Văn phòng Tòa Giám mục Thái Bình, kiêm thêm vai trò Thư ký riêng của Giám mục. Từ năm 2009 đến năm 2014, ông được bổ nhiệm làm chánh xứ Văn Lăng, thuộc giáo hạt Kiến Xương, với số giáo dân là 2000. Giáo xứ này lúc đó còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và nhân sự mục vụ. Ông được ghi nhận là đã hỗ trợ nâng cao đời sống đức tin cho giáo dân tại giáo xứ này trong thời gian quản nhiệm. Từ tháng 9 năm 2014 đến năm 2017, ông quản nhiệm làm chánh xứ Cao Xá, thị trấn Trần Cao, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên, kiêm nhiệm chức vụ Đại diện Giám mục miền Hưng Yên (2014-2016) và Hạt trưởng giáo hạt Đông Hưng Yên.
|
||||
Từ tháng 7 năm 2017, Giám mục Nguyễn Văn Đệ bổ nhiệm linh mục Đặng Văn Cầu giữ chức vụ giám đốc Đại chủng viện Thánh Tâm Thái Bình (có tên gọi khác là Đại chủng viện Thánh Tâm Mỹ Đức). Trên cương vị này, linh mục Đặng Văn Cầu đã tổ chức đào tạo, thường huấn giáo lý viên, phát triển các đoàn hội Công giáo trong giáo phận. Trên thực tế, linh mục Đặng Văn Cầu đảm nhận chức Giám đốc Điều hành của Đại chủng viện, trong khi Giám mục Nguyễn Văn Đệ giữ chức giám đốc chủng viện. Về mặt chính quyền, linh mục Đặng Văn Cầu cũng là đại diện cho Đại chủng viện này khi được chấp thuận cho thành lập. Văn bản đồng ý thành lập Đại Chủng viện Thánh Tâm Thái Bình được ban hành ngày 27 tháng 7 năm 2020. Nhân dịp 50 năm ngày thành lập Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam, ngày 29 tháng 7 cùng năm, linh mục Cầu đã dẫn đầu đoàn Tòa giám mục Thái Bình đến chúc mừng lễ kỷ niệm, đồng thời cảm ơn sự quan tâm và giúp đỡ của Ban Tôn giáo trong việc được chấp thuận thành lập Đại chủng viện. Với việc được chính thức cho hoạt động, Đại chủng viện Thái Bình trở thành một trong số 11 cơ sở đào tạo của Công giáo tại Việt Nam (trong số đó có chín đại chủng viện và một cơ sở II). Đại chủng viện này đào tạo linh mục cho giáo phận Thái Bình.
|
||||
Trong thời kỳ linh mục, linh mục Đặng Văn Cầu còn kiêm nhiệm các chức vụ khác như Giáo sư Giáo lý và Thần học Căn bản tại Đại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội (giai đoạn từ năm 2009 đến 2015) và Trưởng Ban Giáo lý Giáo phận Thái Bình, giai đoạn từ năm 2009 đế năm 2016).
|
||||
Giám mục.
|
||||
Bổ nhiệm.
|
||||
Vào lúc 12 giờ trưa (giờ Rôma, tức 17 giờ, theo giờ Việt Nam) ngày 29 tháng 10 năm 2022, Phòng Báo chí Tòa Thánh ra thông cáo cho biết: Giáo hoàng Phanxicô đã chấp thuận cho Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Đệ từ nhiệm sứ vụ Giám mục Chính tòa Giáo phận Thái Bình, đồng thời bổ nhiệm linh mục Đaminh Đặng Văn Cầu làm Giám mục Chính tòa Giáo phận Thái Bình. Tin tức này cũng được Tổng Giám mục Marek Zalewski, Sứ thần Toà Thánh tại Singapore kiêm Đại diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam thông báo qua linh mục Giuse Đào Nguyên Vũ trên trang web của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Ban đầu thông báo trên sẽ cùng lúc bổ nhiệm linh mục Giuse Bùi Công Trác làm Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng thời điểm công bố bổ nhiệm linh mục Trác phải dời qua ngày 1 tháng 11 cùng năm do ảnh hưởng từ lịch mục vụ của Tổng giám mục Giuse Nguyễn Năng. Với việc bổ nhiệm này, đây là lần đầu tiên trong suốt lịch sử, giáo phận Thái Bình được lãnh đạo bởi một giám mục xuất thân từ linh mục đoàn giáo phận.
|
||||
Sau khi tin tức bổ nhiệm chính thức được loan báo, Giám mục Tân cử Đặng Văn Cầu đã có một cuộc phỏng vấn nhanh với báo "Công giáo và Dân tộc". Chia sẻ về cảm xúc của ông trước tin bổ nhiệm, giám mục tân cử cho biết ông vừa vui mừng vừa lo lắng, do phải gánh trọng trách của chức vị giám mục chánh tòa khi chưa có kinh nghiệm (làm giám mục). Ông cho biết ông an lòng khi được sự động viên và nâng đỡ của giám mục tiền nhiệm, linh mục, tu sĩ và giáo dân giáo phận. Nói về ưu tiên và trăn trở trong việc quản lý giáo phận, giám mục tân cử Đa Minh cho biết ông mong muốn duy trì và phát triển các di sản do các tiền nhân để lại, đồng thời phát triển giáo phận theo các dấu chỉ của thời đại. Trong cuộc phỏng vấn này, ông cũng cho biết mong muốn sẽ hoàn thành một số môn hiện đang giảng dạy tại Đại chủng viện trong điều kiện cho phép, đang thỉnh ý về ngày tấn phong giám mục, cũng như về huy hiệu giám mục còn đang thiết kế dang dở. Ông xác nhận rằng lễ tấn phong sẽ được cử hành cuối năm 2022.
|
||||
Ban Tư vấn Giáo phận Thái Bình tổ chức họp bất thường để bầu chọn Giám quản Giáo phận Thái Bình vào ngày 31 tháng 10 năm 2022. Cuộc họp là để thực hiện yêu cầu của bộ Giáo luật Công giáo, buộc bầu chọn giám quản trong thời gian trống tòa. Kết quả, các linh mục thuộc ban Tư vấn đã "xin" (sic) Giám mục Nguyễn Văn Đệ giữ chức vị Giám quản Giáo phận trong thời gian chờ tấn phong Giám mục Tân cử.
|
||||
Khẩu hiệu, huy hiệu.
|
||||
Tân giám mục chọn khẩu hiệu "Này con xin đến" từ Thánh vịnh 39,8, với hàm ý mong muốn theo gương "Thầy Giêsu và Mẹ Maria luôn tìm và thực thi thánh ý Chúa trong cuộc đời và trong sứ vụ". Về huy hiệu giám mục, giám mục tân cử cho biết chưa thiết kế xong, trong cuộc phỏng vấn sớm sau ngày bổ nhiệm với báo Công giáo và Dân tộc. Theo thông cáo ấn ký ngày 2 tháng 11 năm 2022 của Tòa giám mục Thái Bình, thánh lễ tấn phong cho giám mục Tân cử sẽ được cử hành ngày 31 tháng 12 năm 2022 tại Quảng trường Tòa giám mục ("Nhà Chung") Giáo phận Thái Bình. Trước đó, nghi thức Tuyên xưng Đức Tin và tuyên thệ trung thành được cử hành vào ngày 30 tháng 12 tại Nhà thờ chính tòa Thái Bình.
|
||||
Hình ảnh huy hiệu của Giám mục Tân cử được giới thiệu trên website giáo phận Thái Bình vào ngày 7 tháng 11 năm 2022, với nhiều phiên bản màu sắc khác nhau. Trên nền khiên huy hiệu gồm bốn phần biểu tượng: Thánh Tâm, ngôi sao, con thuyền, các biểu tượng giám mục: sách, gậy, ngọn đuốc. Hai biểu tượng đầu tiên, Thánh Tâm và ngôi sao
|
||||
(biểu tượng "Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội") lần lượt đại diện cho bổn mạng đệ nhất và đệ nhị giáo phận Thái Bình. Con thuyền đại diện cho giáo phận Thái Bình vốn dày đặc sông ngòi, vị trí địa lý nằm ven biển, cũng như đại diện cho lịch sử truyền giáo. Ba biểu trưng còn lại đại diện cho chức giám mục (biểu tượng của Thánh Đa Minh) và nhiệm vụ chính của giám mục là giảng dạy (sách), thánh hóa (ngọn đuốc) và quản trị (gậy).
|
||||
Nghi thức Tuyên xưng, lễ tấn phong và tạ ơn.
|
||||
Nghi thức tuyên xưng Đức Tin và tuyên thệ trung thành của Giám mục Tân cử Đặng Văn Cầu đã được cử hành vào chiều ngày 30 tháng 12 năm 2022. Nghi thức này được cử hành trong giờ Kinh chiều Trọng thể tại Nhà thờ Chính tòa Thái Bình. Đóng vai trò nhân chứng xác nhận nghi thức là Tổng giám mục Đại diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam Marek Zalewski, trong khi vị chủ sự giờ kinh là Giám mục Giáo phận Đà Nẵng Giuse Đặng Đức Ngân. Sau nghi thức tuyên thệ lúc 17 giờ 30, một giờ sau đó, đêm hoan ca văn nghệ chào mừng đại lễ tấn phong diễn ra tại Nhà chung (Tòa giám mục) Giáo phận Thái Bình.
|
||||
Lễ tấn phong Giám mục do Nguyên giám mục Thái Bình Phêrô Nguyễn Văn Đệ chủ phong được cử hành vào sáng ngày 31 tháng 12 tại Quảng trường Nhà Chung (Tòa Giám mục) Giáo phận Thái Bình. Chủ phong cho Tân giám mục là Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Đệ. Đồng tế trong lễ truyền chức có Tổng giám mục Đại diện Tòa Thánh không thường trú Marek Zalewski, hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, ba Tổng giám mục từ ba tổng giáo phận tại Việt Nam, và các giám mục từ các giáo phận tại Việt Nam. Đóng vai trò phụ phong trong nghi thức truyền chức là Giám mục Giuse Nguyễn Tấn Tước, chính tòa Giáo phận Phú Cường và giám mục Giuse Trần Văn Toản, chính tòa Giáo phận Long Xuyên. Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội Giuse Vũ Văn Thiên phụ trách phần giảng lễ. Theo nguồn tin của UCA News, lễ tấn phong cho giám mục tân cử có sự tham dự của 30 tổng giám mục và giám mục, hàng trăm linh mục và hàng nghìn giáo dân. Nguồn tin từ Ban Tôn giáo Chính phủ, ngoài Đại diện Tòa Thánh còn có 27 giám mục Việt Nam tham dự lễ tấn phong. Chính quyền các cấp cũng có đại diện tham dự lễ tấn phong tân giám mục.
|
||||
Lễ tấn phong tân giám mục chính là lần đầu tiên kể từ năm 1979, một giám mục được tấn phong tại giáo phận Thái Bình. Giám mục Cầu chính thức trở thành giám mục thứ bảy quản lý giáo phận (kể từ khi khu vực giáo phận ngày nay được tách ra thành Hạt Đại diện Tông Tòa Thái Bình (Địa phận Thái Bình)). Trong số những vị tiền nhiệm của ông, có hai vị người Tây Ban Nha và bốn vị người Việt Nam xuất thân từ các giáo phận khác, biến ông trở thành giám mục đầu tiên xuất thân từ giáo phận lãnh nhận vai trò lãnh đạo giáo phận. Cũng theo số liệu của UCA, giáo phận Thái Bình có khoảng 136.000 giáo dân và 200 linh mục. Với việc bổ nhiệm và tấn phong cho hai tân giám mục là Đa Minh Đặng Văn Cầu và Giuse Bùi Công Trác (3 tháng 1 năm 2023), Giáo hội Công giáo tại Việt Nam vẫn còn lâm vào tình trạng trống tòa ở bốn giáo phận.
|
||||
Sau lễ tấn phong, Tân giám mục cử hành lễ tạ ơn sau đó vào ngày 1 tháng 1 năm 2023 tại Nhà thờ chính tòa Thái Bình. Đồng tế có nguyên giám mục Thái Bình Phêrô Nguyễn Văn Đệ và nguyên Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, các linh mục giáo phận.
|
||||
Mục vụ.
|
||||
Nhân dịp tĩnh tâm linh mục đoàn tháng 5 năm 2023, Giám mục Đặng Văn Cầu đã công bố quyết định của ông về việc bổ nhiệm, thuyên chuyển linh mục cho các chức vụ khác nhau trong giáo phận Thái Bình. Theo thông báo này, chức danh Giám đốc Đại chủng viện Thái Bình mà ông từng giữ trong thời linh mục được trao cho linh mục Giuse Mai Văn Diện.
|
||||
Tông truyền.
|
||||
Giám mục Đa Minh Đặng Văn Cầu được tấn phong giám mục năm 2022, thời Giáo hoàng Phanxicô, bởi:
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,34 @@
|
|||
Đa Minh Hoàng Văn Đoàn
|
||||
|
||||
Đa Minh Hoàng Văn Đoàn (1912 – 1974) là Giám mục Việt Nam đầu tiên coi sóc Giáo phận Bắc Ninh. Ông có khẩu hiệu là "Tôi sẽ rao truyền danh Chúa cho các anh em tôi".
|
||||
Ông sinh năm 1912 tại Nam Định, từ sớm đã khá thông minh và có chí hướng tu tập thành linh mục dòng. Trong quá trình tu tập, ông đã học ở nhiều nơi, ngoài trong nước còn có Hương Cảng và nhiều năm tại Paris. Cuối năm 1939, ông được thụ phong linh mục và đi dạy nhiều môn tại Paris cùng học nhiều văn bằng khác.
|
||||
Năm 1950, ông được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Bắc Ninh, đến năm 1955 thì ông ngã gãy chân, đi chữa bệnh, năm 1960 về Việt Nam và năm 1963 được bổ nhiệm là Giám mục chính tòa Giáo phận Qui Nhơn.
|
||||
Ngày 20 tháng 5 năm 1974, ông qua đời tại Tòa Giám mục Qui Nhơn, thọ 62 tuổi.
|
||||
Tiểu sử.
|
||||
Thân thế và tu tập.
|
||||
Ông sinh ngày 5 tháng 11 năm 1912 tại làng Trà Lũ Đoài nay thuộc giáo họ Thánh Tâm, giáo xứ Phú Nhai, giáo phận Bùi Chu, xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
|
||||
Cha ông là cụ Hoàng Văn Nhu, một nhà Nho uyên thâm, sinh được 12 người con và ông là con thứ hai và gia đình gọi là Thứ. Cậu Thứ hiền lành đạo đức, thông minh chăm học và sớm có chí hướng đi tu làm linh mục, được Linh mục Đa Minh Lịch nhận làm nghĩa tử, đổi tên là Đoàn.
|
||||
Năm 1927, cậu Đoàn lên 15 tuổi, được vào Tiểu chủng viện Ninh Cường, cùng năm với một người bạn quê ở An Lập, Thái Bình, là Giuse Trương Cao Đại người mà sau này làm Giám mục Giám quản Tông tòa Giáo phận Hải Phòng.
|
||||
Năm 1932, ông vào Giáo hoàng học viện tỉnh Nam Định do các linh mục Đa Minh điều khiển. Học 3 năm Triết lý, thầy Đoàn tỏ ra có trí tuệ xuất sắc và lòng đạo đức vượt trội.
|
||||
Năm 1935, thầy xin gia nhập dòng Đa Minh tại Quần Phương cùng với hai người bạn là Giuse Trương Cao Đại và Micae Tuần. Ngày 31 tháng 8 năm 1936, ông được khấn dòng tại Quần Phương. Qua đầu năm sau, thầy cùng một số thầy khác được sang Hương Cảng, học tại Rosaryhill.
|
||||
Năm 1938, bề trên gửi ông đi du học Pháp, vào trường dòng Saulchoir. Năm 1939, ông đi Paris, học tại nhà dòng Etoiles đồng thời theo lớp văn chương ở đại học Sorbonne. Cũng năm này, ông được khấn trọn đời tu sĩ dòng Đa Minh.
|
||||
Linh mục.
|
||||
Ông được thụ phong Linh mục ngày 24 tháng 12 năm 1939, trở thành một linh mục của dòng Đa Minh. Sau đó, linh mục Đoàn tiếp tục học thêm và đỗ Tiến sĩ Thần học, Cử nhân Thánh kinh, năm 1944.
|
||||
Trong 2 năm sau chiến tranh, 1945 và 1946 ở Pháp, linh mục Hoàng Văn Đoàn giảng dạy tiếng Hy Lạp, Do thái và La tinh tại nhà dòng thánh Maximin và tại Collège Sète, đồng thời làm Tuyên úy cho Việt kiều tại Pháp. Ông nhận chăm sóc giúp đỡ những người được gọi là “tội lỗi” trú ngụ tại nhà Grotte de Sainte Baumevà thường đi thuyết giảng ở nhiều nơi trên đất Âu như Pronille, Vienne, Grenoble, La Voule-sur-Rhône và nhất là ở Sanatorium Thorenc.
|
||||
Năm 1946, ông sang Roma ngụ tại đại học Angelico của dòng Đa Minh để theo học ở viện Institulum Biblicum, học chuyên sâu tiếng Semetico (tiếng Do Thái), đỗ Cử nhân Triết học. Và đặc biệt, ông là người Việt Nam đầu tiên lấy được bằng tốt nghiệp ngôn ngữ Semetico và Tú tài Kinh Thánh ở Roma, báo Observator Romano có viết bài ca tụng linh mục Hoàng Văn Đoàn. Cuối năm 1946, ông rời Roma về Việt Nam giữa lúc chiến tranh Việt-Pháp leo thang lan rộng toàn quốc và ông lưu trú ở Hải Phòng. Giám mục Hải Phòng bấy giờ là Giám mục Francisco Gomez (Lễ) nhờ linh mục Đoàn làm Chính xứ họ đạo Hồng Gai vì giáo phận này quá thiếu linh mục.
|
||||
Giáo xứ Hồng Gai là một giáo xứ nghèo, nằm phía cực Đông Bắc biên giới Việt-Trung. Khi linh mục Hoàng Văn Đoàn vui vẻ đến nhận xứ thì giáo dân đã tan tác, nhà thờ trên Núi Đạo bị quân Tưởng Giới Thạch tàn phá. Ông nỗ lực xây lại nhà thờ, Nhà Chung, tập hợp giáo dân, củng cố các hội đoàn, giáo dục tình tương thân tương trợ cho giáo dân. Ông củng cố các phường trống, phường trắc, phường bát âm để hỗ trợ và tăng phần sống động trang trọng các nghi lễ tôn giáo và vận động mở trường dạy chữ, dạy giáo lý cho thiếu nhi. Ông còn quan tâm chăm sóc cho đời sống cho giáo dân luôn tìm kiếm công ăn việc làm cho họ. Là một linh mục Dòng và là giáo sư đại học nhưng khi ở cương vị linh mục Chính xứ, ông cũng đã phát huy năng lực trí tuệ và nhiệt tâm phục vụ giáo dân với tinh thần đầy trách nhiệm.
|
||||
Ngày 12 tháng 8 năm 1949, linh mục Hoàng Văn Đoàn phải rời xứ Hồng Gai vì được bổ nhiệm sang Hương Cảng làm giáo sư khoa Kinh Thánh, tiếng Pháp, tiếng Hy Lạp cho sinh viên tu viện Đa Minh.
|
||||
Giám mục.
|
||||
Giám quản Tông tòa Bắc Ninh.
|
||||
Ngày 12 tháng 3 năm 1950, Tòa Thánh thông báo bổ nhiệm linh mục dòng Đa Minh Hoàng Văn Đoàn làm Giám mục Giám quản Tông tòa Giáo phận Bắc Ninh, ông cũng là người Việt đầu tiên lãnh nhận cương vụ này. Lễ tấn phong Giám mục của ông tổ chức vào ngày 3 tháng 9 năm 1950 và ông là người đã lập lại Chủng viện Antôn Ninh Đạo Ngạn (bị giải tán từ năm 1947), xây toà Giám mục, trường trung học Vinh Sơn Liêm, nhà in Chân phước Cẩm và cử 8 linh mục đi du học.
|
||||
Chiến tranh Việt - Pháp lan rộng, tỉnh Bắc Ninh thuộc vùng chiến sự. Khu Tòa giám mục Bắc Ninh bị phá hủy còn một đống gạch vụn, ông phải trú trong phòng mặc áo của nhà thờ chính tòa, tòa nhà duy nhất tồn tại. Tuy vậy, ông vẫn quyết định tái thiết giáo phận này, sau khi đi vận động giúp đỡ giáo phận tại Hoa Kỳ vào năm 1950 và 1952, ông đã có nguồn tài chính để xây lại nhà Chung, trường Trung học Vinh sơn Liêm, lập ấn quán Chân phước Cẩm. Ông quan tâm đào tạo hàng giáo sĩ mới: Tiểu chủng viện được tổ chức quy mô, ông liền chọn 8 linh mục trẻ xuất ngoại du học. Lúc giáo phận đang phát triển nhanh chóng thì đất nước tạm chia đôi bằng hiệp định Genève, nhiều giáo dân và linh mục di cư vào Nam.
|
||||
Năm 1954, cộng đồng Công giáo rời bỏ quê hương, nhà cửa di cư ồ ạt vào miền Nam theo thông tin "Chúa vào Nam". Giám mục Hoàng Văn Đoàn đã ra thư chung kêu gọi giáo dân ở lại quê hương. Hành động này của ông được chính quyền đánh giá cao.
|
||||
Giám mục Tông tòa Hoàng Văn Đoàn quyết định ở lại Bắc Ninh với giáo dân còn khoảng 55.000 người với 1 linh mục dòng Đa Minh (linh mục Phạm Quang Chiêu) và 6 linh mục triều khác. Lập trường của ông được Tòa thánh tán thưởng, trong bức điện, Tòa Thánh gọi ông là “người anh dũng tuyên xưng Đức Kitô” (“vaillant confesseur du Christ”). Ông gần như chỉ còn một mình, khi ở Bắc Ninh, khi sang Xuân Hòa, kiêm nhiệm nhiều giáo xứ.
|
||||
Chữa bệnh.
|
||||
Ngày 29 tháng 9 năm 1955, chiều ông đạp xe làm lễ bổn mạng cho giáo xứ Ngọc Lâm thuộc tỉnh Bắc Giang, đến nơi thì trời đã tối. Dân địa phương thấy một người to lớn, râu quai nón và cho rằng ông là người Tây, họ liền đuổi bắt làm Giám mục Đoàn trong lúc luống cuống thì đã té ngã gãy xương chân. Dân địa phương bắt được, dù ông nói mình là người Việt và là Giám mục Bắc Ninh, nhưng họ không tin và giam ông suốt đêm ấy. Hôm sau ông bị áp giải lên Công an tỉnh Bắc Giang. Sau khi xác nhận ông là người Việt, ông được trả tự do.
|
||||
Sau một thời gian băng bó ở Bắc Ninh với hoàn cảnh thiếu thuốc men, phương tiện, Giám mục Tông tòa Hà Nội Giuse Trịnh Như Khuê đưa ông về Hà Nội. Bác sĩ Huard chiếu điện và khuyên Giám mục Đoàn nên sang Hồng Kông vì bệnh viện Hà Nội không đủ phương tiện chữa trị cho ông. Chính quyền cho phép ông được tự do đi Hồng Kông chữa bệnh. Sau sáu tháng, khi chân đã tạm ổn định, ông xin về giáo phận Bắc Ninh nhưng chính quyền Hồng Kông không chấp thuận và ông ở lại Hồng Kông dạy Triết học và Cổ ngữ tại học viện Rosaryhill.
|
||||
Giám mục chính tòa Qui Nhơn.
|
||||
Tháng 10 năm 1960, theo ý Tòa thánh, ông về miền Nam Việt Nam, nhận chức Giám đốc Giáo hoàng chủng viện Albert Phú Nhuận và dạy Triết học ở đại học Đà Lạt.
|
||||
Ngày 18 tháng 1 năm 1963, Giám mục Hoàng Văn Đoàn được Tòa Thánh chọn làm Giám mục chính tòa Giáo phận Qui Nhơn thay Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi làm Giám mục chính tòa giáo phận Đà Nẵng. Ngày 29 tháng 4 cùng năm tại tu viện Albert Phú Nhuận, tỉnh dòng Đa Minh tổ chức tiệc tiễn đưa Giám mục Đoàn, tiệc có sự tham dự của Khâm sứ Tòa thánh Salvator Asta, Đức ông De Nittis, Bề trên giáo phận Sài Gòn linh mục Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm, Giám mục bạn học cũ Giuse Trương Cao Đại.. Hôm sau, Giám mục Hoàng Văn Đoàn đáp máy bay ra Qui Nhơn nhậm chức. Cùng đi có Khâm sứ Tòa thánh, Tổng giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn Phaolô Nguyễn Văn Bình, Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục và nhiều người khác. Trong thời gian tại nhiệm ông đã tiếp tục và hoàn thành những công trình mà Giám mục Phạm Ngọc Chi đã thực hiện từ tháng 7 năm 1957.
|
||||
Sức khỏe của ông suy giảm, đôi mắt ngày càng yếu gần như mù, Giám mục Đa Minh Hoàng Văn Đoàn từ trần ngày 20 tháng 5 năm 1974 tại Tòa Giám mục Qui Nhơn, thọ 62 tuổi với 24 năm làm Giám mục, trong đó có 5 năm Giám mục Bắc Ninh, 11 năm Giám mục Qui Nhơn.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,5 @@
|
|||
Đa Minh Đinh Đạt
|
||||
|
||||
Đa Minh Đinh Đạt hay Đinh Văn Đạt là một binh lính của Nhà Nguyễn theo đạo Công giáo, tử vì đạo dưới triều vua Minh Mạng, được Giáo hội Công giáo Rôma phong Hiển Thánh vào năm 1988. Ông sinh năm 1803 tại làng đạo Phú Nhai, tỉnh Nam Định (nay thuộc giáo xứ Phú Nhai, xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, thuộc Giáo phận Bùi Chu).
|
||||
Ông là lính dưới quyền tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Một hôm, Trịnh Quang Khanh triệu tập binh lính dự tiệc. Tiệc tàn, ông nhắc lại lệnh cấm đạo của nhà vua và chỉ thị mở hai cánh cửa. Cửa bên phải đặt Thánh Giá trên mặt đất. Người lính nào chấp nhận đạp lên ảnh tượng thì được về. Cửa bên trái cho bày dụng cụ gia hình, gông cùm, xiềng xích. Một số lớn binh lính Công giáo đã nhắm mắt đạp lên ảnh Chúa. Còn một số quân nhân can đảm giữ đức tin thì bị tống giam vào ngục. Mặc dù vậy, khi bị tra tấn, Đinh Văn Đạt cũng chối đạo nhưng sau hối hận nên đến quan tổng đốc xin trả lại tiền, tái tuyên xưng niềm tin. Ông bị kết án xử giảo ngày 18 tháng 7 năm 1839 tại pháp trường Nam Định. Thi hài được an táng trong vườn nhà người anh cả. Đến khi hết lệnh cấm đạo, giáo dân cải táng về Nhà thờ Phú Nhai.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,5 @@
|
|||
Đa Minh Đinh Đức Mậu
|
||||
|
||||
Đa Minh Đinh Đức Mậu là một linh mục tử vì đạo, được Giáo hội Công giáo Rôma tôn phong Hiển Thánh vào năm 1988.
|
||||
Ông sinh năm 1794 tại làng Phú Nhai, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định (nay thuộc giáo xứ Phú Nhai, xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, thuộc Giáo phận Bùi Chu). Năm 1829, sau khi được thụ phong linh mục, ông cùng với 10 anh em đồng môn xin gia nhập và tuyên khấn dòng Đa Minh. Ông phục vụ các xứ đạo Trung Linh, Phú Nhai và Kiên Lao. Ngày 27 tháng 8 năm 1858, ông bị bắt cùng với một số tín hữu tại làng Kẻ Diền, Thái Bình, sau đó, bị giải về Hưng Yên. Ngày 5 tháng 11 năm 1858, ông bị xử trảm tại Hưng Yên, được mai táng tại nhà thờ giáo xứ Mai Linh, Nam Định.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
Đá Nhỏ
|
||||
|
||||
Đá Nhỏ (tiếng Anh: " Discovery Small Reef"; tiếng Filipino: "Gomez"; , Hán-Việt: "Tiểu Hiện tiêu") là một rạn san hô thuộc cụm Nam Yết của quần đảo Trường Sa. Đá này nằm về phía đông của đá Lớn khoảng 11 hải lý (20 km) và về phía tây nam của đá Ga Ven khoảng 16 hải lý.
|
||||
Đá Nhỏ là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát đá này.
|
||||
Đặc điểm.
|
||||
Đây là một rạn san hô hình tròn có đường kính khoảng 800 mét, một phần lộ ra khi thủy triều xuống. Mực nước nông tại đây làm nổi bật một khu vực rộng 1 km².
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,5 @@
|
|||
A Night at the Opera
|
||||
|
||||
A Night at the Opera là album phòng thu thứ tư của ban nhạc rock người Anh Queen. Album được phát hành vào ngày 21 tháng 11 năm 1975, đồng sản xuất bởi Roy Thomas Baker và Queen. Đây là album được đầu tư tốn kém nhất trong sự nghiệp của ban nhạc. Thành công rất lớn về mặt thương mại đã đưa "A Night at the Opera" trở thành album được hâm mộ và nổi tiếng nhất của Queen.
|
||||
Album được lấy tên từ bộ phim cùng tên của Marx Brothers – bộ phim mà cả ban nhạc đã ngồi xem cùng nhau trong một phòng thu ghép trong quá trình thu âm. Tại Anh, album được phát hành bởi EMI và đứng đầu tại đây trong 4 tuần không liên tục, còn tại Mỹ, album được Elektra Records phát hành, vươn lên vị trí cao nhất là số 4 và trở thành album đầu tiên của ban nhạc đạt chứng chỉ Bạch kim tại đây.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,12 @@
|
|||
Đa đồ thị
|
||||
|
||||
Trong toán học, đa đồ thị ("multigraph" hay "pseudograph") là một đồ thị được phép có nhiều cạnh (còn gọi là cạnh song song), nghĩa là các cạnh có cùng một nút kết thúc. Do đó hai đỉnh có thể được kết nối bởi nhiều cạnh.
|
||||
Đa đồ thị vô hướng.
|
||||
Ta có một đa đồ thị "G":=("V", "E") với:
|
||||
Đa đồ thị có thể được dùng trong mô hình các chuyến bay bởi các hãng hàng không. Trong trường hợp này đa đồ thị sẽ là một đồ thị có hướng với những cặp cạnh có hướng song song nhau nối các thành phố để cho biết có thể bay từ vị trí này đến vị trí kia.
|
||||
Một số tác giả cũng cho phép đa đồ thị có khuyên, nghĩa là có một cạnh nối một đỉnh với chính nó, trong khi những người khác gọi là "pseudographs" và cho rằng đa đồ thị ("multigraph") là không có khuyên.
|
||||
Đa đồ thị có hướng.
|
||||
Một đa đồ thị có hướng ("multidigraph") mà độ thị được phép có nhiều cung ("arc"),cung có cùng một đỉnh đầu và cuối. Một đa đồ thị có hướng "G":=("V","A") với
|
||||
Một "đa đồ thị hỗn hợp" "G":=("V","E", "A") cũng có thể được định nghĩa như "đồ thị hỗn hợp".
|
||||
Ngoài ra ta có một đa đồ thị có hướng "G":=("V", "A", "s", "t") với
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,11 @@
|
|||
Đá phấn
|
||||
|
||||
Đá phấn là một loại đá trầm tích mềm, tơi xốp, màu trắng, một dạng của đá vôi tự nhiên chủ yếu chứa các ẩn tinh của khoáng vật calcit (tới 99 %). Nó tạo thành dưới các điều kiện hải dương tương đối sâu từ sự tích lũy dần dần của các phiến calcit nhỏ (các gai vôi) rụng ra từ các vi sinh vật được gọi là tảo gai vôi (nhóm tảo đơn bào dạng phù du trong nhóm Coccolithales của ngành Haptophyta). Các bướu đá lửa và đá phiến silic thường được thấy nằm trong đá phấn. Đá phấn cũng có thể là từ để chỉ tới các hợp chất khác, bao gồm silicat magiê và sulfat calci.
|
||||
Đá phấn có độ kháng tốt trước xói mòn và sự sụt lún khi so với các dạng sét mà thông thường hay đi cùng với nó, vì thế nó tạo ra các vách đá cao và dốc trong đó các chóp đá phấn tiếp giáp với biển. Các đồi đá phấn thường được tạo thành khi các dải đá phấn chạy tới bề mặt theo một góc nào đó, tạo thành các sườn dốc. Do đá phấn tơi xốp nên nó có thể chứa một lượng lớn nước ngầm, tạo ra nguồn dự trữ nước tự nhiên để giải phóng nước chậm chạp trong mùa khô.
|
||||
Đá phấn được khai thác tại nhiều nơi trên thế giới, như tại Anh, làm vật liệu xây dựng và phân bón vôi cho đồng ruộng. Tại đông nam Anh, các hốc Dene là ví dụ đáng chú ý về các hốc đá phấn cổ đại.
|
||||
Loạt Đá phấn là một đơn vị địa tầng châu Âu đã trầm lắng xuống vào cuối kỷ Phấn trắng. Nó hình thành nên các vách đá trắng Dover nổi tiếng tại Kent, Anh. Khu vực Champagne tại Pháp có các trầm tích đá phấn nằm dưới cùng, trong đó có các hang hốc nhân tạo được sử dụng để cất giữ rượu vang.
|
||||
Thành phần.
|
||||
Đá phấn có thành phần hợp thành chủ yếu là cacbonat calci với một lượng nhỏ đất bùn và sét hay các hạt thạch anh nhỏ nhất và các dạng giả vi thể của calcit trong các sinh vật hóa thạch như nhóm trùng tia (ngành "Radiolaria"). Không hiếm khi còn gặp cả các hóa thạch trong kỷ Phấn trắng của các động vật chân đầu như các nhóm cúc thạch (bộ "Ammonitida") hay tiễn thạch (tên đá, nhóm "Belemnoidea"). Thông thường nó được hình thành ngầm dưới nước, nói chung trên đáy biển, sau đó kết đặc và bị nén ép trong quá trình hình thành đá thành các dạng thường thấy ngày nay. Trong quá trình hình thành đá thì silica tích tụ để tạo ra các bướu đá lửa nằm trong đá cacbonat.
|
||||
Sử dụng đá phấn.
|
||||
Sử dụng truyền thống của đá phấn trong nhiều trường hợp đã được thay thế bằng các chất khác, mặc dù từ "đá phấn" hay "phấn" thường cũng được áp dụng cho chất thay thế.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,11 @@
|
|||
A.S.D. Barletta 1922
|
||||
|
||||
ASD Barletta 1922 là một câu lạc bộ bóng đá Ý nằm ở Barletta, Apulia.
|
||||
Barletta đã tham gia giải đấu chuyên nghiệp với tên gọi Socà Sportiva Barletta Calcio. Vào năm 2015, câu lạc bộ đã bị trục xuất khỏi 2015-16 Serie D, một câu lạc bộ thay thế mới, ASD Barletta 1922, đã được tham gia vào 2015-16 Eccellenza vào ngày 6 tháng 8.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1922.
|
||||
Ở đỉnh cao của sự thành công của câu lạc bộ, họ đã được thăng hạng Serie B trong mùa giải 1987-88 và ở đó cho đến mùa giải 1990-91.
|
||||
Trong mùa 2007-08 ở Serie D, Barletta đứng vị tí 2 trong Girone H, đủ điều kiện chơi trận play-off thăng hạng. Họ đủ điều kiện là một trong chín đội ở vòng bảng của vòng play-off, nhưng đứng thứ hai trong nhóm của họ và không đủ điều kiện cho vòng bán kết. Xếp hạng đội xếp thứ hai tốt nhất trong ba nhóm, đội giành được suất thăng hạng đặc biệt lên Lega Pro Seconda Divisione, là một trong 5 đội có vị trí cao hơn trong các trận play-off thăng hạng.
|
||||
Màu sắc và huy hiệu.
|
||||
Màu sắc chính thức của đội là đỏ và trắng.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,13 @@
|
|||
A.S.D. Nuova Santa Maria delle Mole Marino
|
||||
|
||||
ASD Nuova Santa Maria delle Mole Marino (trước đây là "ASD Nuova Santa Maria delle Mole") là một câu lạc bộ bóng đá Ý có trụ sở tại Marino, Lazio.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
Thành lập.
|
||||
Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1978.
|
||||
Serie D.
|
||||
Trong mùa giải 2012-13, đội được thăng hạng lần đầu tiên từ Eccellenza Lazio / A sang Serie D và đổi tên gọi thành tên hiện tại.
|
||||
Màu sắc và huy hiệu.
|
||||
Màu của đội là xanh nhạt và trắng.
|
||||
Sân vận động.
|
||||
Nó chơi tại Stadio Comunale Domenico Fiore, ở Marino, Ý với sức chứa 3.000 chỗ ngồi.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,48 @@
|
|||
A.S.D. Sorrento
|
||||
|
||||
ASD Sorrento 1945 là một câu lạc bộ bóng đá Ý đến từ Sorrento, Ý, được thành lập với tên gọi là Sorrento Calcio vào năm 1945.
|
||||
Đội đã mất liên kết với FIGC, sau khi bị tòa án tuyên bố phá sản ở Torre Annunziata vào tháng 9 năm 2015. Kể từ phán quyết này, "Câu lạc bộ bóng đá Sorrento" được thành lập bởi sự sáp nhập của Atletico Sorrento 5 và Sant'Antonio Abate. Câu lạc bộ đã đăng ký lại để thi đấu tại Eccellenza Campania vào năm 2016-17.
|
||||
Câu lạc bộ đã dành phần lớn lịch sử của mình ở các giải đấu thấp của hệ thống bóng đá Ý. Sorrento đạt đến đỉnh cao như Serie B trong những năm đầu thập niên 1970, nơi họ ghi nhận thành tích cao nhất của họ với vị trí thứ 19 trong mùa giải 1971-72. Ngoài điều này và các chức vô địch mà họ đã giành được ở cấp độ thấp hơn, Sorrento cũng đã giành được Cup Ý Serie D.
|
||||
Lịch sử.
|
||||
Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1945 và sau khi chơi các giải đấu thấp hơn, họ đã giành được quyền đăng ký vào giải đấu Promozione Campania cho mùa giải 1949-1950. Sorrento kết thúc cuối giải đấu, trong một mùa giải có các đối thủ mạnh hơn trong nước như Avellino và Casertana.
|
||||
Dưới cái tên Flos Carmeli; cái tên bắt nguồn từ Công giáo La Mã về Đức Trinh Nữ Maria có nghĩa là Đức tin, Tình yêu, Sự vâng lời và Dịch vụ, câu lạc bộ trở lại giải đấu trong giữa những năm 1950. Lần này vị trí của họ ổn định hơn, và họ đã có một sân vận động mới tên "Stadio Italia". Tên của câu lạc bộ Sorrentine đã được đổi lại thành Sorrento Calcio ban đầu vào năm 1957.
|
||||
Vào cuối những năm 1960, Sorrento bắt đầu trở nên thành công hơn rất nhiều, họ đã có các lần thăng hạng liên tiếp. Đầu tiên, họ giành được Promozione Campania sau khi hon đối thủ ba điểm và sau đó trong mùa giải Serie D đầu tiên của họ năm 1968-69, họ là những nhà vô địch về hiệu số bàn thắng, sau khi kết thúc trận đấu với Turris tại Torre del Greco.
|
||||
Thành công của giải đấu những năm 1970.
|
||||
Đội bóng đến từ tỉnh Naples lần đầu tiên trải nghiệm bóng đá cấp độ Serie C trong mùa giải 1969-70. Sorrento đạt được vị trí thứ 4 đáng khâm phụctrên các câu lạc bộ nổi tiếng hơn như Lecce và Messina, cũng như các đối thủ trong khu vực như Salernitana và Avellino. Ở mùa giải tiếp theo, Sorrento đã tiến bộ hơn nữa và lên ngôi vô địch Serie C; chỉ cần một điểm trước Salernitana là giành danh hiệu.
|
||||
Với những cầu thủ như Giuseppe Bruscolotti trong đội hình, Sorrento được gia nhập Serie B cho mùa giải 1971-72. Nó được coi là một thành tựu to lớn cho phía tỉnh nhỏ để tham gia ở giải đấu cấp cao; nhiều đội mà sân thi đấu của họ có sức chứa sân vận động lớn hơn toàn bộ dân số của Sorrento.
|
||||
Mặc dù họ đã hoàn thành ở vị trí thứ hai từ dưới lên và đã xuống hạng vào cuối mùa giải, nhưng Sorrento đã ghi lại một số kết quả rất tốt. Ấn tượng nhất là chiến thắng 4-0 trước Brescia vào ngày 30 tháng 4 năm 1972. Họ cũng đánh bại Livorno hai lần, và Bari 1-0 trên sân khách.
|
||||
Sau khi xuống hạng, Sorrento không thể trở lại, thay vào đó buộc phải chiến đấu với nó ở Serie C trong những năm 1970 kể từ đó; vị trí cao nhất mà họ có thể kết thúc một mùa giải là vị trí thứ 4 trong mùa 1975-76 bị kẹp giữa Bari và Messina. Đối với mùa giải 1978-79, hệ thống giải đấu được tổ chức lại một chút và câu lạc bộ được đưa vào Serie C2; cấp độ thứ tư của bóng đá Ý. Một vị trí á quân đã đạt được vào năm 1984-85, trong đó, Sorrento chỉ hoàn thành kém một điểm sau nhà vô địch Licata of Sicily; vị trí á quân là đủ để thăng hạng cho Sorrento lên Serie C1.
|
||||
Từ chối.
|
||||
Sorrento đã xuống hạng từ Serie C1, ở vị trí cuối bảng trong mùa giải đầu tiên của họ, trong phần còn lại của những năm 1980, Sorrento đã xuống Serie C2. Một cú trượt nữa xuất hiện vào năm 1989-90 khi họ được đưa xuống Campionato Interregionale (tương đương ngày nay là Serie D), có lẽ đây là vì lý do tài chính vì Sorrento thực sự đã kết thúc vị trí thứ 5 tại Serie C2 mùa trước.
|
||||
HSorrento đã bị rớt khỏi giải đấu Interregionale năm 1990, đội bóng với vị trí thứ 15, câu lạc bộ được đưa vào giải đấu Promozione Campano. Họ đã bỏ lỡ cơ hội thăng hạng lên khu vực Boscoreale, mùa giải tiếp theo, Sorrento kết thúc với tư cách là á quân của khu vực Gragnano và do đó không được thăng hạng thêm một lần nữa. Cuối cùng, ở lần thử thứ ba, Sorrento Calcio đã thăng hạng và thoát khỏi giải đấu Promozione Campano thông qua việc giành chức vô địch năm 1993.
|
||||
Hồi sinh: giữa những năm 1990 trở đi.
|
||||
Câu lạc bộ đang ở Eccellenza Campania và trải qua ba mùa giải đầu tiên của họ ở giải đấu trong 7 vị trí hàng đầu. Dưới sự huấn luyện của Amato, Sorrento đã chiến thắng và đăng quang Ecellenza năm 1997-98. Họ đã được tham gia CND (đó là tên của ngày hôm nay Serie D), Sorrento đã ổn định trong hai mùa giải đầu tiên trở lại giải đấu, kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 5 và thứ 6.
|
||||
2001-02 là một cú hích trên bản đồ cho sự hồi sinh của Sorrento Calcio, họ đã hoàn thành vị trí thứ 14, cao hơn điểm của câu lạc bộ đã xuống hạng mùa đó; Internapoli. Câu lạc bộ đã xoay xở để xoay chuyển mọi thứ trong các mùa giải tiếp theo và đến năm 2005, đội bóng đã đạt được cú đúp, họ đã lên ngôi vô địch Serie D và cũng giành được Coppa Italia Serie D.
|
||||
Sorrento thi đấu tại Serie C2 trong mùa giải 2006-07, họ đã giành ngôi vô địch khi hơn Benevento một điểm; Francesco Ripa kết thúc với tư cách là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của giải đấu với 23 bàn thắng.
|
||||
Từ 2007-08 đến 2012 và Lega Pro Prima Divisione.
|
||||
Sorrento thi đấu ở giải hạng 3 của Ý trong mùa 2007-08 và cố gắng duy trì vị thế của mình bằng cách kết thúc ở vị trí thứ 10 cách vị trí xuống hạng 10 điểm. Vị thế của họ trong bảng đã được củng cố hơn trong mùa giải tiếp theo mặc dù chỉ hơn 1 điểm so với các vị trí xuống hạng và ở vị trí thứ 11. Vị trí này đã được cải thiện trong mùa giải 2009-10 khi đội kết thúc ở vị trí thứ 9, mặc dù một lần nữa chỉ hơn 3 điểm so với vị trí xuống hạng. Mùa này chứng kiến sự xuất hiện của Paulinho, người đã ghi 15 bàn sau 33 trận cho mượn từ Livorno, tuy nhiên, đó là mùa tiếp theo, khi anh thực sự sẽ trở thành tiêu đề và đạt được vị thế sùng bái ở Sorrento.
|
||||
Mùa 2010-11.
|
||||
Vào đầu mùa giải 2010-11, Sorrento đã đứng đầu bảng Serie C1 vào tháng 11 và đối mặt với khả năng thăng hạng mạnh mẽ lên Serie B. Điều này phần lớn là do những bàn thắng được ghi bởi Paulinho Betanin, người đã xuất sắc với 24 bàn thắng (trong 29 trận) vào cuối mùa giải. Tuy nhiên, việc thăng hạng không được thực hiện và bằng cách kết thúc mùa giải ở vị trí thứ hai, Sorrento đủ điều kiện tham dự Play-offs. Betanin đã bị chấn thương trong những trận đấu cuối cùng của mùa giải và không góp mặt trong trận play-off. Đối với trận Bán kết, họ gặp Hellas Verona và không may mắn khi thua trận lượt đi 2-0 trên sân Bentegodi. Trận lượt về đã chứng kiến trận hòa 1-1 tại Stadio Italia và thua 3-1 chung cuộc, Sorrento không đủ điều kiện cho trận chung kết Play-off. Trong khi Sorrento đã không chơi đủ tốt để lọt vào trận chung kết, thì trận lượt về đã bị hủy hoại bởi những tranh cãi. Theo một tờ báo địa phương, những người hâm mộ đến Hellas Verona (một đội có liên quan mạnh mẽ đến chủ nghĩa côn đồ ở Ý) đã không tôn trọng sự im lặng của phút chốc đối với những người lính Ý thất thủ ở Afghanistan và tiến hành hô vang những lời tán tụng phân biệt chủng tộc đối với cầu thủ Niang của Senento. Sau đó, theo dõi trận đấu, như được kể lại trên tờ báo địa phương Positano, nhiều cửa hàng địa phương rõ ràng là cảnh bạo lực khi những người hâm mộ thành phố tràn lan trên đường phố. Sorrento thất bại trong nỗ lực thăng hạng serie B.
|
||||
Mùa 2011-12.
|
||||
Đội đã bị trừ hai điểm khi bắt đầu tham gia vào vụ bê bối dàn xếp trận đấu liên quan đến Juve Stabia. Đây là một vấn đề riêng biệt từ vụ bê bối liên quan đến các câu lạc bộ Ý cao cấp hơn vào năm 2011. Mặc dù vậy, Sorrento đã thể hiện tốt trong phần lớn mùa giải 2011-12 và đến tháng 2 năm 2012, đứng ở vị trí thứ 5, với tiền đạo ngôi sao Ciro Ginestra dẫn đầu với 13 bàn sau 22 trận. Trận derby địa phương trên sân nhà với Avellino cũng chứng kiến sự trở lại của huyền thoại câu lạc bộ Paulinho, người đang đứng trên khán đài của trận đấu và được chào đón như một vị vua trở về bởi "tifosi". Ginestra tiếp tục ghi 21 bàn trong Lega Pro, trở thành "Capocannoniere", trong đó có hai bàn thắng trước Pro Vercelli trong trận đấu áp chót của mùa giải.
|
||||
Đội đã thất bại trong năm thứ hai liên tiếp của họ để có được sự thăng hạng lên Serie B, tuy nhiên, mặc dù đã hoàn thành vị trí thứ 4 và đủ điều kiện cho vòng play-off. Họ đã thua Carpi trong trận bán kết và thua trận đầu tiên 1-0 trên sân nhà. Trận lượt về đã diễn ra tại Carpi ở Emilia Romangna vào ngày 27 tháng 5 năm 2012 và mặc dù Sorrento đã chiến thắng 1-0 (bàn thắng của Carlini), nhưng không đủ để đưa họ vào trận chung kết play-off. Vì Carpi đã hoàn thành ở vị trí cao hơn trong giải đấu so với Sorrento, họ đã được trao một vị trí trong trận chung kết và Sorrento tiếp tục tham gia Lega Pro cho một mùa giải tiếp theo. Huấn luyện viên Ruotolo bày tỏ sự hối tiếc về kết quả này và rằng Sorrento và người hâm mộ của họ xứng đáng được tốt hơn.
|
||||
Mùa 2012-13.
|
||||
Sau đó, vào ngày 8 tháng 6 năm 2012, mười hai ngày sau thất bại ở trận play-off, thảm họa xảy ra với câu lạc bộ khi chủ tịch đương nhiệm Mario Gambardella tuyên bố quyết định từ chức với hiệu lực ngay lập tức và để câu lạc bộ được đặt vào tay Thị trưởng của thị trấn Giuseppe Cuomo. Ông trích dẫn tình hình tài chính khó khăn sau đó là lý do đằng sau quyết định từ chức của ông. Điều này đến như một cú sốc lớn đối với câu lạc bộ và do những hoàn cảnh không có kế hoạch và cực đoan này, nhiều cầu thủ (bao gồm cả Ginestra) và cả huấn luyện viên đã rời câu lạc bộ trong suốt mùa hè. Câu lạc bộ đã cố gắng duy trì hoạt động và đăng ký cho mùa 2012-13 do sự hỗ trợ tài chính của các nhà tài trợ và hướng dẫn của Cuomo, nhưng có nghi ngờ nghiêm trọng về việc câu lạc bộ có thể tiếp tục trừ khi tìm thấy chủ tịch mới hay không. Sau một vài tuần hỗn loạn, Sorrento có một chủ tịch mới, nhưng cuộc khủng hoảng đã gây ra vấn đề với họ với những người thuê ở sân Stadio Italia ở Sorrento và cho đến khi điều này có thể được giải quyết thì Sorrento Calcio sẽ phải chơi các trận đấu tại nhà của họ tại sân vận động Simonetta Lamberti của hàng xóm Pro Cavese ở Cava de 'Tirreni. Câu lạc bộ đã giới thiệu huấn luyện viên mới của mình, ông Buc Bucaro cho người hâm mộ và giới truyền thông vào ngày 21 tháng 7 năm 2012 tại khách sạn Continental ở Sorrento. Sorrento Calcio bắt đầu mùa giải của họ với trận hòa 0-0 trên sân nhà trước Gubbio. Mùa giải không thành công và Rossoneri kết thúc ở vị trí thứ 15 trong số 16 đội vào cuối mùa giải khiến họ phải chơi ở vòng play out. Sau trận đấu 2 lượt với Prato, Sorrento thua 2-1 trên tổng số và bị rớt khỏi Lega Pro Prima Divisione sang Seconda Divisione.
|
||||
Từ năm 2013 đến nay: Sự sụp đổ từ Lega Pro xuống các cấp thấp hơn.
|
||||
Mùa 2013-14.
|
||||
Sau khi họ xuống hạng từ Lega Pro, Sorrento đã chơi mùa 2013-2014 ở bảng I của Serie D. Vào tháng 6, có suy đoán rằng câu lạc bộ có thể được mua bởi chủ sở hữu một thời của Juve Stabia, Franco Giglio. Giglio thực sự sẽ mua lại câu lạc bộ, nhưng mãi đến tháng 6 năm 2015, năm sau. Vào ngày 24 tháng 7 năm 2013, Sorrento đã thuê Luca Chiappino, người từng huấn luyện đội trẻ Genoa. Mùa giải đã không bắt đầu tốt, nhưng Sorrento đã dành một chút thời gian ở nửa trên của bảng xếp hạng. Tuy nhiên, Chiappino không tồn tại được lâu, vào ngày 25 tháng 11, ông đã bị sa thải sau thất bại quyết định trước Martina Franca sau 3 chiến thắng, 3 trận hòa và 7 thất bại khiến "Rossoneri" đứng thứ tư từ dưới lên và trong khu vực xuống hạng. Câu lạc bộ sau đó đã chuyển sang Giovanni Simonelli, huấn luyện viên đã mang lại thành công cho họ chỉ một vài năm trước đó. Ông được bổ nhiệm vào ngày 27 tháng 11 năm 2013. Sau thất bại thứ 4 liên tiếp vào tháng 2 năm 2014, Simonelli cảm thấy đội xứng đáng nhận được nhiều may mắn hơn trong suốt bốn trận đấu, đặc biệt là liên quan đến các quyết định của trọng tài. Tuy nhiên, ông cho biết các cầu thủ và câu lạc bộ phải tin vào chính mình để thoát khỏi cuộc đua khó khăn này. Mặc dù đã hoàn thành thứ 9 và bỏ lỡ cơ hội thăng hạng lên Lega Pro Primera Divisione khi kém một điểm, nhưng Sorrento đã tìm thấy chính mình trong vòng play out. Trận đấu diễn ra đã chứng kiến Sorrento Calcio xuống hạng từ Lega Pro C2 / B sau trận thua tổng hợp 4-3 trước Arzanese.
|
||||
Mùa 2014-15.
|
||||
Mùa giải 2014-2015 cũng gây thất vọng tương tự, với câu lạc bộ lơ lửng quanh khu vực xuống hạng trong phần lớn thời gian của năm. Họ đã xoay xở để kết thúc ở vị trí thứ 14 dẫn đến việc họ chơi trong trận đấu tránh xuống hạng. Họ đã gặp Battipagliese trong một trận đấu mà họ thua 2-1. Điều này dẫn đến sự xuống hạng thứ 3 liên tiếp của họ, lần này là xuống Eccellenza Campania. Về quyền sở hữu, việc mua lại on-off-on-off của Giglio cuối cùng đã hoàn thành vào tháng 6 năm 2015. Giải thích về sự chậm trễ khoảng một năm trong việc đầu tư của mình, Giglio tuyên bố rằng sự suy giảm số liệu tham dự và các vấn đề tài chính tại câu lạc bộ đã ảnh hưởng đến quyết định của ông.
|
||||
Mùa 2015-16.
|
||||
Sorrento bắt đầu mùa giải 2015/2016 ở Eccellenza Campania. Đây là một chiến dịch thực sự thảm khốc đối với "Rossoneri", đội đã kết thúc cuối bảng xếp hạng sau khi không thể thắng một trận duy nhất, hòa 5 và thua 25 đội còn lại. Mặc dù vậy, câu lạc bộ đã cố gắng đăng ký lại để tham gia Eccellenza cho mùa giải 2016-2017.
|
||||
Mùa 2016-17.
|
||||
Mario Turi được bổ nhiệm làm HLV vào đầu mùa giải và ban đầu làm rất tốt. Tuy nhiên, ông đã được thay thế vào tháng 12 năm 2016 bởi Maurizio Coppola. Tính đến ngày 24 tháng 1 năm 2017, họ ở vị trí thứ 2 và tất nhiên là cho vị trí thi đấu, đã thắng 10 trong số 17 trận đấu của họ.
|
||||
Danh hiệu.
|
||||
Serie C: 1
|
||||
Serie C2: 1
|
||||
Serie D: 2
|
||||
Coppa Italia Serie C: 1
|
||||
Coppa Italia Serie D: 1
|
||||
Eccellenza Campania: 1
|
||||
Promozione Campania: 2
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,4 @@
|
|||
A Sầu
|
||||
|
||||
A Sầu là một thung lũng nằm ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, nằm trên biên giới Việt-Lào. Thung lũng trải dài 40 km theo hướng bắc nam với khu vực đất trũng bằng phẳng rộng 1 km, hai bên là hai dãy núi phủ rừng rậm cao từ 3 đến 6 nghìn feet. Thung lũng A Sầu là một trong những vị trí trọng yếu để quân đội Nhân dân Việt Nam vận chuyển người và hàng hóa vào chiến trường miền Nam dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh; tại đây cũng từng diễn ra nhiều trận đánh ác liệt trong chiến tranh Việt Nam.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
A Saucerful of Secrets
|
||||
|
||||
A Saucerful of Secrets là album phòng thu thứ hai của ban nhạc rock người Anh Pink Floyd. Nó được thu âm tại Abbey Road Studios của EMI trong nhiều ngày từ tháng 8 năm 1967 tới tháng 4 năm 1968 và được phát hành ngày 29 tháng 6 năm 1968 qua EMI Columbia tại Anh, và ngày 27 tháng 7 năm 1968 tại Mỹ bởi Tower.
|
||||
Album được thu âm cả trước và sau khi Syd Barrett rời nhóm. Do hành vi của Barrett mỗi lúc một không thể đoán trước được, David Gilmour được tuyển mộ vào tháng 1 năm 1968. Kết quả, "A Saucerful of Secrets" trở thành album phòng thu duy nhất Pink Floyd với cả năm thành viên, là đĩa nhạc đầu tiên cùng Gilmour, ông hiện diện trên năm ca khúc ("Let There Be More Light", "Set the Controls for the Heart of the Sun", "Corporal Clegg", "A Saucerful of Secrets" và "See-Saw"), và cuối cùng với Barrett, trong ba ca khúc ("Remember a Day", "Jugband Blues" và "Set the Controls for the Heart of the Sun"). "Set the Controls for the Heart of the Sun" là ca khúc duy nhất của Pink Floyd mà cả năm thành viên đều góp mặt. "A Saucerful of Secrets" là album yêu thích nhất của tay trống Nick Mason.
|
||||
Bối cảnh.
|
||||
Nửa sau 1967, hành vi thất thường Syd Barrett ngày càng lộ rõ, là trong một buổi diễn của tour diễn nước Mỹ đầu tiên, Barrett từ từ làm mất điều chỉnh cây guitar trên sàn diễn. Khán giả, những người từng trải qua các lần biểu diễn thử nghiệm của Pink Floyd, có vẻ thích thú với điều đó, và không nhận ra sự kinh ngạc của phần còn lại của ban nhạc. Khi phỏng vấn trên show của Pat Boone trong thời gian chạy tour này, Barrett đáp lại câu hỏi của Boone bằng một "cái nhìn trống rỗng và hoàn toàn câm lặng", và mím chặt miệng khi biểu diễn. Barrett biểu hiện hành vi tương tự trong lần xuất hiện đầu tiên của nhóm trên chương trì TV nổi tiếng "American Bandstand" của Dick Clark. Barrett trả lời các câu hỏi của Clark với không chút hăng hái hay nhiệt tình nào.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,18 @@
|
|||
A Sky Full of Stars
|
||||
|
||||
"A Sky Full of Stars" là bài hát của ban nhạc alternative rock người Anh Coldplay, phát hành ngày 2 tháng 5 năm 2014 bởi hãng đĩa Parlophone làm đĩa đơn thứ ba từ album phòng thu thứ sáu của họ, "Ghost Stories" (2014).
|
||||
Thông tin.
|
||||
Ca khúc được nhóm cùng DJ người Thụy Điển Avicii sáng tác và sản xuất, với các trợ lý Paul Epworth, Daniel Green và Rik Simpson. Bài hát được thu tại các phòng thu The Bakery và The Beehive ở Bắc Luân Đôn nước Anh – hai phòng thu lập ra riêng cho Coldplay cho việc thực hiện hai album trước đó, "Viva la Vida or Death and All His Friends" và "Mylo Xyloto".
|
||||
Bài hát bắt đầu được cho phép tải về từ iTunes Store từ ngày 2 tháng 5 năm 2014 và ba ngày sau được phát hành dưới dạng đĩa CD bởi hãng Parlophone, là đĩa đơn thứ ba để quảng bá cho album phòng thu thứ sáu sắp ra mắt "Ghost Stories".
|
||||
"A Sky Full of Stars" là một ca khúc nhạc dance điện tử với ảnh hưởng house, đánh dấu mốc lần đầu tiên nhóm ra mắt một ca khúc nhạc dance.
|
||||
Bài hát đã được một đề cử giải Grammy hạng mục Trình diễn nhạc pop bởi bộ đôi/nhóm nhạc xuất sắc nhất.
|
||||
Một video âm nhạc của bài hát do Mat Whitecross đạo diễn đã được phát hành ngày 19 tháng 6 năm 2014. Video chiếu cảnh ban nhạc hát bài hát, được quay tại phố King Street, Newtown, ngoại ô Sydney, Úc.
|
||||
Xếp hạng.
|
||||
"A Sky Full of Stars" đạt được thành công lớn về mặt thương mại, lọt vào top 10 tại bảng xếp hạng của 16 quốc gia trong đó có Canada, Mỹ, Úc và Vương quốc Anh; dẫn đầu bảng xếp hạng tại Ý, Israel, Tây Ban Nha và vùng Wallonie của Bỉ.
|
||||
24 giờ kể từ khi bắt đầu có mặt trên iTunes, ca khúc đã có 121.690 lượt tải về trả phí, ngay lập tức dẫn đầu bảng xếp hạng iTunes tại 86 quốc gia. Tính đến nay, bài hát đã lọt vào top 10 của hầu hết các quốc gia, trong đó có Vương quốc Liên hiệp Anh, quê nhà của nhóm, nơi ca khúc đạt vị trí số 9. Tại New Zealand, bài hát ra mắt New Zealand Singles Chart ở vị trí số 2, trở thành đĩa đơn thành công nhất cho đến nay của nhóm tại quốc gia này.
|
||||
Trong số ra ngày 30 tháng 5 năm 2014 của "Billboard" Hot 100, bài hát đã đạt vị trí số 10 và trở thành thứ ba của nhóm lọt vào top 10 Hot 100. Nó cũng dẫn đầu bảng xếp hạng "Billboard" Hot Dance Club Songs của Mỹ.
|
||||
Đội ngũ thực hiện.
|
||||
Lấy từ ghi chú album "Ghost Stories".
|
||||
Chứng nhận.
|
||||
!scope="col" colspan="3"| Streaming
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,5 @@
|
|||
Đá Trâm Đức
|
||||
|
||||
Đá Trâm Đức (tiếng Anh: Meijiu Reef; tiếng Trung: 梅九礁, bính âm: Meijiu Jiao) là một rạn san hô thuộc cụm Thị Tứ của quần đảo Trường Sa. Đây là một rạn đá "nửa nổi nửa chìm" (cạn nước khi thủy triều thấp) rộng khoảng 1,8 km theo trục bắc-nam, dài khoảng 4 km theo trục đông-tây, có dạng hình chữ V với hướng mở về phía đông. Đá này nằm vế phía đông-bắc của đảo Thị Tứ khoảng 2,3 km. Tọa độ của rạn san hô này là .
|
||||
Đá Trâm Đức là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát rạn san hô này.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,8 @@
|
|||
A Wind in the Door
|
||||
|
||||
A Wind in the Door là một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng dành cho thanh thiếu niên do Madeleine L'Engle sáng tác. Cuốn này nằm cùng bộ với cuốn "A Wrinkle in Time", và là một phần của series tiểu thuyết Time Quintet.
|
||||
Loạt tiểu thuyết.
|
||||
Các nhân vật Meg, Charles Wallace và Calvin lần đầu tiên xuất hiện trong "A Wrinkle in Time" (1962, ISBN 0-374-38613-7). Không giống như một số cuốn sách khác trong bộ, "A Wind in the Door" tập trung vào ba nhân vật chính giống nhau. Họ và gia đình mình cùng xuất hiện trong tổng cộng tám cuốn sách, bốn cuốn về gia đình Murry ("The Time Quartet") và bốn cuốn về đứa con lớn của những đứa trẻ O'Keefe một thế hệ sau. "The Time Quartet" cộng với cuốn sách cuối cùng của O'Keefe, An Acceptable Time, được bán trên thị trường dưới dạng một phần của loạt tiểu thuyết "Time Quintet".
|
||||
Nghe dưới dạng audio.
|
||||
Một phiên bản Listening Library được phát trên bốn băng âm thanh, được đọc bởi tác giả, phát hành vào năm 1994, ISBN 0-8072-7506-9. Vào tháng 1 năm 2012, Listening Library đã phát hành một phiên bản CD âm thanh được kể bởi nữ diễn viên Jennifer Ehle. ISBN 0307916618
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
Aarberg
|
||||
|
||||
Aarberg là một đô thị ở huyện Seeland trong bang Bern ở Thụy Sĩ.
|
||||
Aarberg có cự ly 20 km từ Bern trên sông Aar. Với diện tích 7,93 km2 (3,06 sq mi), Aarberg giáp Bargen, Kappelen, Lyss, Radelfingen và Seedorf.
|
||||
Aarberg là không được nhầm lẫn với Aarburg ở Aargau hoặc với Aarbergen ở Đức.
|
||||
Thành phố này đã từng nằm trên một hòn đảo với sông Aar và sông Aar nhỏ chảy xung quanh nó. Thành phố cũ phát triển xung quanh các cạnh của hòn đảo với một quảng trường lớn ở giữa. Ngoài ra thành phố cũ, Aarberg cũng bao gồm các khu mới bên ngoài, và các làng quay,
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
Ab urbe condita
|
||||
|
||||
Ab urbe condita (thuật ngữ cổ điển: ABVRBECONDITÁ, phát âm Latin: [ab ʊrbɛ kɔndɪtaː] liên quan đến "anno urbis conditae", AUC, AUC, auc, cũng viết là "anno urbis", viết tắt rt a.u.) là một từ có nghĩa Latin "Từ khi thành lập thành phố (Rome)", truyền thống có niên đại đến năm 753 TCN AUC là một hệ thống đánh số năm sử dụng bởi một số sử gia Rôma cổ để xác định những năm đặc biệt của La Mã. Các biên tập viên thời Phục hưng đôi khi thêm AUC vào các bản thảo La Mã họ xuất bản, Mang lại ấn tượng sai lầm rằng người La mã thường đánh số năm của họ bằng hệ thống AUC. Phương pháp thống trị năm La Mã theo thời La Mã là đặt tên cho hai quan chấp chính giữ chức năm đó. Năm, đặc biệt là đế chế Byzantine sau năm 537 khi Justinian yêu cầu sử dụng nó.
|
||||
Ý nghĩa.
|
||||
Ngày truyền thống cho việc thành lập Rome vào ngày 21 tháng 4 năm 753 trước Công nguyên, được bắt đầu bởi học giả Marcus Terentius Varro từ thế kỷ 1 thế kỷ trước. Varro có thể đã sử dụng danh sách lãnh sự với những sai lầm của nó, và được gọi là năm của lãnh sự quán đầu tiên "245 ab urbe condita", chấp nhận khoảng thời gian 244 năm từ Dionysius of Halicarnassus cho các vị vua sau khi thành lập Rôma. Tính đúng đắn của tính toán của Varro chưa được xác nhận nhưng nó vẫn được sử dụng trên toàn thế giới.
|
||||
Từ Hoàng đế Claudius (trị vì năm 41-54 AD) trở đi, tính toán của Varro đã thay thế các tính toán hiện đại khác. Kỷ niệm ngày kỷ niệm thành phố trở thành một phần của tuyên truyền đế quốc. Claudius là người đầu tiên tổ chức lễ kỷ niệm tuyệt vời để vinh danh ngày kỷ niệm của thành phố, vào năm 48 sau công nguyên, 800 năm sau khi thành lập thành phố. Hadrian và Antoninus Pius cũng tổ chức các buổi lễ tương tự vào năm 121 và 147/148 AD tương ứng.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,6 @@
|
|||
Abacavir
|
||||
|
||||
Abacavir (ABC) là một loại thuốc dùng để phòng ngừa và điều trị HIV/AIDS. Tương tự như các thuốc ức chế enzyme phiên mã ngược giống nucleoside khác (NRTI), abacavir được sử dụng cùng với các thuốc điều trị HIV khác, và được khuyến cáo không nên dùng một mình. Chúng có thể được uống dưới dạng viên nén hoặc dung dịch và có thể dùng cho trẻ em trên ba tháng tuổi.
|
||||
Abacavir thường được dung nạp tốt. Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm ói mửa, khó ngủ, sốt và cảm thấy mệt mỏi. Tác dụng phụ nghiêm trọng hơn bao gồm quá mẫn, tổn thương gan và nhiễm axit lactic. Xét nghiệm di truyền có thể chỉ ra liệu một người có nguy cơ bị quá mẫn hơn hay không. Các triệu chứng quá mẫn bao gồm phát ban, nôn mửa và khó thở. Abacavir thuộc nhóm thuốc NRTI, hoạt động bằng cách ngăn chặn enzyme sao chép ngược, một enzyme cần thiết cho sự nhân lên của virus HIV. Trong lớp NRTI, abacavir là một nucleoside carbocyclic.
|
||||
Abacavir được cấp bằng sáng chế vào năm 1988 và được chấp thuận sử dụng tại Hoa Kỳ vào năm 1998. Nó nằm trong danh sách các thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, tức là nhóm các loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần thiết trong một hệ thống y tế. Chúng có sẵn như dưới dạng thuốc gốc. Chi phí bán buôn ở các nước đang phát triển tính đến năm 2014 là từ 0,36 đến 0,83 USD mỗi ngày. Tính đến năm 2016, chi phí bán buôn cho một tháng dùng thuốc điển hình ở Hoa Kỳ là 70,50 USD. Thông thường, abacavir được bán cùng với các thuốc điều trị HIV khác, chẳng hạn như abacavir/lamivudine/zidovudine, abacavir/dolutegravir/lamivudine và abacavir/lamivudine.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,17 @@
|
|||
Abbey Lee
|
||||
|
||||
Abbey Lee Kershaw (sinh 12 tháng 6 năm 1987) là một người mẫu Úc.
|
||||
Tuổi thơ.
|
||||
Abbey Lee sinh ra và lớn lên tại Melbourne, Úc.
|
||||
Sự nghiệp.
|
||||
Cô đã xuất hiện trong các chiến dịch quảng cáo cho các nhãn hiệu như Gucci, D & G, Express, Chanel, Chloe, Ralph Lauren, Karl Lagerfeld, Gap, Moussy, Guilty Brotherhood, Fendi, Mulberry, Jaeger, H&M, Alexander Wang, Anna Sui, Calvin Klein, Tom Ford, Hugo Boss, Donna Karan và Versace.
|
||||
Cô được trình diễn trong show của các nhãn hiệu Gucci, Versace, Fendi, Prada, Burberry Prorsum, Emilio Pucci, Chanel, Dior, Givenchy, Yves Saint Laurent, Balmain, Lanvin, Valentino, Miu Miu, Stella McCartney, Karl Lagerfeld, Alexander McQueen, Tom Ford và nhiều nhãn hiệu nổi tiếng khác.
|
||||
Abbey được nhiều tạp chí phỏng vấn như tạp chí V, W Magazine, Dazed & Confused, Allure, Harper's Bazar, i-D, tạp chí The Last, tạp chí Purple, tạp chí Muse, tạp chí The Gentlewoman... cô cũng được lên bìa nhiều tạp chí như Vogue Nhật Bản 2 lần, Vogue Úc 4 lần, được lên bìa Vogue Hàn Quốc, Nga và Đức... Cô từng được nhiều nhiếp ảnh gia nổi tiếng chụp hình cho như Inez van Lamsweerde, Vinoodh Matadin và, Nick Knight, Mario Testino, Steven Meisel và Craig McDean.
|
||||
Abbey Lee là gương mặt quảng cáo nước hoa "Flora" của Gucci trong hai năm liên tiếp. Cô trình diễn cho Victoria's Secret trong hai năm 2008 và 2009. Trong show của Alexander McQueen tại tuần lễ thời trang xuân hè 2009, Abbey đã bị ngất, có thông tin cho rằng do chế độ ăn kiêng mà cô bị ngất, tuy nhiên, Abbey Lee đã lên tiếng và cho rằng mình bị ngất do các bộ quần áo quá chật.
|
||||
Cô liên tục xuất hiện trong top 10 First face do Fashion TV bình chọn, trong tuần lễ thời trang xuân hè 2010 cô là người đứng thứ nhất trong top 10 First face. Abbey xếp thứ 5 trong bảng xếp hạng 50 người mẫu do Models.com bình chọn.
|
||||
Kershaw tham gia chụp hình cho bộ lịch Pirelli 2010 do Terry Richardson làm đạo diễn và năm 2011 do Karl Lagerfeld làm đạo diễn.
|
||||
Cuộc sống cá nhân.
|
||||
Cô có nhiều bạn bè trong giới người mẫu, phải kể đến như Freja Beha, Karmen Pedaru, Daisy Lowe, Karlie Kloss và Catherine McNeil.
|
||||
Abbey có tổng cộng 10 lỗ bấm trên cơ thể mình, bao gồm 1 lỗ bấm ở mũi, 1 lỗ bấm ở núm vú... Cô cũng có nhiều hình xăm bao gồm cả hình xăm đầu tiên của cô biểu tượng của chòm sao Song tử ở mắt cá chân, "truth" ở dưới môi dưới của mình, "index" được ghi trên ngón trỏ trái, "courtney and timothy" được ghi bằng mực trắng trên cánh tay trái và những hình khác.
|
||||
Cô đăng sống tại New York. Bạn trai của cô là rocker Matthew Hutchinson.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,4 @@
|
|||
Abbottabad
|
||||
|
||||
Abbottabad (; phát âm ) là một thành phố thuộc vùng Hazara của tỉnh Khyber Pakhtunkhwa, Pakistan. Thành phố nằm ở Thung lũng Orash, cách thủ đô Islamabad về phía bắc và Peshawar về phía đông, độ cao trung bình trên mực nước biển và là trung tâm hành chính của huyện Abbottabad. Đây là một thành phố có khí hậu dễ chịu ở Pakistan với một số địa điểm du lịch Khyber Pakhtunkhwa, Gilgit-Baltistan và Azad Kashmir trong mùa hè. Ngày 1 tháng 5 năm 2011, tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tuyên bố Osama bin Laden đã bị tiêu diệt tại Abbottabad. Kênh tin tức Geo News ở Karachi trước đó vài giờ đã đưa tin một máy bay trực thăng bị rơi và một vụ nổ súng lớn xảy ra vào tối 1 tháng 5 "gần đường Kakul ở PMA (Học viện quân sự Pakistan), cách trung tâm Abbottabad về phía đông bắc, theo hướng đông bắc đường cao tốc Karakoram Highway .
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,8 @@
|
|||
Abdelkader Benayada
|
||||
|
||||
Abdelkader Benayada (sinh ngày 5 tháng 5 năm 1982, ở Frenda) là một cầu thủ bóng đá người Algérie thi đấu cho MO Constantine ở Giải bóng đá hạng nhì quốc gia Algérie.
|
||||
Sự nghiệp câu lạc bộ.
|
||||
Ngày 9 tháng 6 năm 2009, Benayada ký bản hợp đồng 2 năm cùng với USM Alger.
|
||||
Sự nghiệp quốc tế.
|
||||
Benayada từng là thành viên của đội tuyển U-23 quốc gia Algérie năm 2003 và 2004. Anh thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Phi 2003 ở Nigeria và ở vòng loại Thế vận hội Mùa hè 2004, ra sân tổng cộng 8 trận.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,9 @@
|
|||
Abe no Hirafu
|
||||
|
||||
là một vị tướng Nhật Bản nổi danh trong thời kỳ Asuka.
|
||||
Tiểu sử.
|
||||
Các sự kiện trong cuộc đời ông được kể đến trong "Nihon Shoki" (Nhật Bản thư kỷ) và "Kojiki" (Cổ sự ký), cả hai được viết vài thập kỷ sau khi ông qua đời. Không rõ tên gọi và gốc gác của cha ông, vì các nguồn thư tịch bằng văn bản mâu thuẫn lẫn nhau, và có thể đã được thay đổi nhằm tôn vinh gia phả của các gia tộc còn sống.
|
||||
Sau khi đến tuổi trưởng thành, Abe là một thống đốc của tỉnh Koshi. Năm 658, ông đã đánh bại man tộc Mishihase ở vùng "Watarishima" (có thể hàm ý là bán đảo Tsugaru hoặc Hokkaido ngày nay) theo yêu cầu của người dân bản địa. Quân của ông tiếp tục đột kích và cướp bóc ở Hokkaido và đảo Okushiri cho đến năm 660, đưa vô số chiến lợi phẩm và tù binh về triều ca khúc khải hoàn. Chiến lợi phẩm của ông bao gồm ít nhất hai con gấu sống, 70 tấm da gấu và 353 tù binh. Vào tháng 3 năm 660, các đồng minh địa phương đã yêu cầu Abe mang quân trợ giúp tại sông Ishikari tại Hokkaido, và giành phần thắng thêm lần nữa.
|
||||
Năm 662, hoàng tử Naka no Ōe (sau là Thiên hoàng Tenji) đã giao phó cho ông và vị vương tử bị giam giữ Phù Dư Phong tham gia cuộc chinh phạt bán đảo Triều Tiên nhằm khôi phục lại nước Bách Tế bị diệt vong. Abe được toàn quyền chỉ huy đoàn quân phía sau trong số ba đạo quân có sẵn. Đạo quân của ông là một đơn vị hải quân hoàn toàn. Ông đặt chân đến bán đảo này vào tháng 8 năm 662 và được triệu về nước sau thất bại trong trận Bạch Giang với liên quân nhà Đường-Tân La vào cuối tháng 8 năm 663.
|
||||
"Abe no Hirafu" có thể là tổ tiên của một hoặc nhiều gia tộc Abe, cũng như các gia tộc Ando và Akita.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,8 @@
|
|||
Abebech Gobena
|
||||
|
||||
Abebech Gobena (Amharic: አበበች ጎበና; Afan Oromo: Abbabachi Goobanaa) (sinh 1938) là một Ethiopia nhân đạo, và là người sáng lập và 12: 16: 52sdkversion: 1.0.10_cusv_20180104_17_56 giám đốc AGOHELMA, một trong những lâu đời nhất trại trẻ mồ côi ở Ethiopia. Bà thường được gọi là Mẹ Teresa của Châu Phi.
|
||||
Đời sống.
|
||||
Gobena được sinh ra tại một ngôi làng nhỏ ở nông thôn tên là Shebel vào năm 1938. Cha bà đã bị giết trong cuộc chiến Ethio-Ý thứ hai, vì vậy bà được ông bà nuôi dưỡng cho đến khi 9 tuổi. Năm 10 tuổi, bà đã kết hôn mà không có sự đồng ý của mình, nhưng bà đã chạy trốn đến thủ đô, Addis Ababa. Ở đó, bà quản lý để có được giáo dục cơ bản và sau đó làm việc như một người kiểm soát chất lượng tại một công ty cà phê và ngũ cốc.
|
||||
bà đã đến Gishen Mariam, tỉnh Wollo, để hành hương vào năm 1973. Vào thời điểm đó, khu vực này đã bị nạn đói nghiêm trọng. Trong một trung tâm nuôi dưỡng, Gobena nhìn thấy một đứa trẻ bên cạnh người mẹ đã chết của mình. Bà phân phát thứ duy nhất bà có cho các nạn nhân khác, một ổ bánh mì và năm lít nước thánh, và mang đứa trẻ cùng với một đứa trẻ mồ côi khác đến nhà bà ở Addis Ababa. Trong một năm, bà mang 21 đứa con về nhà. Trong biệt danh Imperial Hika jijo, anh là người đầu tiên trong trường mẫu giáo của mình, và anh đã thực hiện những việc tốt rất xa và đến quê hương của mình để làm công việc từ thiện. Khi con trai ông đang nấu ăn, con trai ông đã thay quần áo cũ và thay quần áo cho nông dân. Họ đã mua những cái mà họ đã bỏ lỡ và cung cấp cho họ thức ăn khi họ ăn trẻ em
|
||||
Hôm nay, AGOHELMA, hiệp hội do bà sáng lập, cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau ngoài trại trẻ mồ côi, bao gồm giáo dục chính quy và không chính quy, các hoạt động phòng chống HIV/AIDS, cải thiện môi trường sống và phát triển cơ sở hạ tầng, trao quyền cho phụ nữ, trong số những người khác. Ngoài ra, nó cung cấp dịch vụ chăm sóc thể chế cho 150 trẻ mồ côi. Kể từ khi thành lập, hơn 12.000 trẻ em nghèo đã được hiệp hội hỗ trợ với hơn 1,5 hàng triệu người đã được hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp từ hiệp hội ở các khu vực khác nhau của đất nước.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,9 @@
|
|||
Abel Korzeniowski
|
||||
|
||||
Abel Korzeniowski (; sinh ngày 18 tháng 7 năm 1972) là nhà soạn nhạc cho phim điện ảnh và nhạc kịch người Ba Lan.
|
||||
Cuộc đời và sự nghiệp.
|
||||
Korzeniowski được sinh ra ở Kraków. Ông đã tiếp xúc với âm nhạc từ khi còn rất nhỏ. Mẹ ông chơi cello trong khi cả hai anh em Antoni và Andrzej của ông đều là nhạc sĩ. Ông tốt nghiệp Học viện Âm nhạc tại Krakow, chuyên ngành cello và trở thành nhà soạn nhạc với sự trợ giúp của Krzysztof Penderecki. Một thời gian sau, với tư cách là nhà soạn nhạc cho các bộ phim và vở kịch, ông dần dần được ủng hộ và nhận được giải thưởng Ludwik ("Nagroda Ludwika") năm 2009.
|
||||
Ông là nhà soạn nhạc và xử lí âm thanh cho một số bộ phim Ba Lan như: "Big Animal", "Tomorrow's Weather", "An Angel in Krakow", cũng như các tác phẩm của Hollywood: "Battle for Terra", "Pu-239 (phim)", "Tickling Leo", "A Single Man" và "WE".
|
||||
Ông đã giành được một giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim San Diego năm 2009 cho nhạc phim hay nhất trong "A Single Man" và thậm chí còn được đề cử Quả cầu vàng năm 2009 ở hạng mục nhạc phim xuất sắc nhất với bộ phim này. Năm 2012, ông được đề cử Nhạc phim xuất sắc nhất cho bộ phim "WE", tại Lễ trao giải Quả cầu vàng lần thứ 69.
|
||||
Ông đã cho ra mắt album thu âm mới của Patricia Kaas, như một sự tôn vinh dành cho Edith Piaf, một trong những nghệ sĩ trình diễn tốt nhất của thế kỷ 20.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,6 @@
|
|||
Abhishek Halder
|
||||
|
||||
Abhishek Halder (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Ấn Độ thi đấu ở vị trí tiền vệ cho Indian Arrows ở I-League.
|
||||
Sự nghiệp.
|
||||
Halder bắt đầu sự nghiệp as part of the FC Pune City Academy set up. Vào tháng 11 năm 2017, Halder được lựa chọn thi đấu cho Indian Arrows, một đội bóng của All India Football Federation bao gồm các cầu thủ U-20 Ấn Độ để họ có thời gian chơi bóng. Anh có màn ra mắt cho đội bóng ngày 18 tháng 12 năm 2017 trước Minerva Punjab. Anh đá chính và thi đấu cả trận khi Indian Arrows lost 1–0.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,5 @@
|
|||
Abil
|
||||
|
||||
Abil (, cũng đánh vần Abel hoặc Aabel) là một ngôi làng ở miền trung Syria, một phần hành chính của Tỉnh Homs, nằm cách Homs 10 km về phía nam. Các địa phương lân cận bao gồm al-Nuqayrah và Kafr Aya ở phía bắc, Maskanah về hướng đông bắc, Judaydat al-Sharqiyah về phía đông, Shinshar về phía đông nam, Damina al-Sharqiyah ở phía nam, al-Buwaydah al-Sharqiyah về phía tây nam và Qattinah về phía tây Theo Cục Thống kê Trung ương Syria (CBS), Abil có dân số 2.873 trong cuộc điều tra dân số năm 2004. Cư dân của nó chủ yếu là người Hồi giáo Sunni.
|
||||
Abil được xác định là khu định cư thời La Mã của Abila Lysaniae. Các nhà địa lý Syria thời trung cổ Yaqut al-Hamawi thăm làng trong thập niên 1220, lưu ý đó là "Một làng Hims, nằm gần thành phố, ở phía nam, và khoảng 2 dặm xa xôi."
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,5 @@
|
|||
Ablah
|
||||
|
||||
Ablah (; ) là một ngôi làng ở phía bắc tỉnh Aleppo, tây bắc Syria. Nằm trong một wadi được bao quanh bởi dãy núi Aqil và cách khoảng về phía đông bắc của hồ chứa Shahba, nó nằm ở vị trí về phía nam Akhtarin và khoảng phía đông bắc thành phố Aleppo.
|
||||
Về mặt hành chính, ngôi làng thuộc về Nahiya Akhtarin ở quận Azaz. Các địa phương lân cận bao gồm Tall Tanah về phía tây bắc và Hezwan về phía đông nam. Trong cuộc điều tra dân số năm 2004, Ablah có dân số 517 người.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,9 @@
|
|||
Absolute First Album
|
||||
|
||||
Absolute First Album là album đầu tay của nhóm nhạc nữ thần tượng Hàn Quốc T-ara được phát hành vào ngày 27 tháng 11 năm 2009. Album đạt vị trí thứ 2 trên Gaon tuần. Theo kế hoạch ban đầu, đây lẽ ra phải là đĩa mở rộng nhưng sau đó công ty quyết định phát hành thành một album đầy đủ. Album này bao gồm bốn đĩa đơn trước đó của T-ara là "Good Person" (Ver. 1), "Lie", "T.T.L (Time to Love)", "T.T.L Listen 2" và hai đĩa đơn được ra mắt cùng ngày "Bo Peep Bo Peep", "Like the first time" cùng hai đĩa đơn "I Go Crazy Because Of You", "I'm Really Hurt" trong bản repackage "Breaking Heart". Riêng ca khúc "Good Person" (Ver. 1) được sáu thành viên chính thức hiện tại ghi âm lại thành "Good Person" (Ver. 2).
|
||||
Phát hành và tái phát hành.
|
||||
Tháng 11 năm 2009, Core Contents Media thông báo T-ara sẽ ra mắt mini-album đầu tiên. Tuần sau, Core Contents thay đổi quyết định ban đầu và phát hành album đầu tay cho T-ara theo dạng kỹ thuật số vào ngày 27 tháng 11 thay vì mini-album. Đến ngày 2 tháng 12, T-ara phát hành album của mình dưới dạng đĩa CD. Ngay khi ra mắt, Absolute First Album giành vị trí thứ 2 trên Gaon tuần. Hai đĩa đơn của album là "Bo Peep Bo Peep" và "Like the first time" lần lượt đạt vị trí thứ 4 và thứ 10 trên Gaon tuần.
|
||||
Trước khi phát hành album, Core Contents Media đã tổ chức một cuộc khảo sát mà công chúng phải lựa chọn giữa "Bo Peep Bo Peep" hoặc "Cheoeum Cheoreom" (, "Like The First Time") để chọn ra ca khúc chủ đề cho album. 9.000 người đã tham gia cuộc khảo sát trên nhiều cổng thông tin âm nhạc khác nhau, trong đó 53% (4.770 người) chọn "Like The First Time" thay vì "Bo Peep Bo Peep". Tuy nhiên, "Bo Peep Bo Peep" lại được quảng bá trên các chương trình âm nhạc vì những lý do nào đó.
|
||||
Năm 2010, trong lúc T-ara đang quảng bá ca khúc "Like The First Time" thì giọng ca chính Soyeon bất ngờ được bác sĩ chẩn đoán là cô bị nhiễm cúm H1N1 nên hoạt động quảng bá đành phải dừng lại.
|
||||
Đầu tháng 2 năm 2010, có thông báo rằng T-ara sẽ phát hành phiên bản repackaged nhằm để cảm ơn người hâm mộ đã ủng hộ cho nhóm trong album đầu tay của mình. Ngày 23 tháng 2 năm 2010, T-ara tái phát hành album đầu tay của mình với đĩa đơn chủ lực "Neo Ttaemune Michyeo" (, "I Go Crazy Because Of You", "You Drive Me Crazy") do Wheesung sáng tác, lần lượt đạt vị trí thứ nhất và thứ 31 trên bảng xếp hạng Gaon. Ngày 3 tháng 3 năm 2010, nhóm phát hành bản repackage vật lý "Breaking Heart" cùng đĩa đơn thứ hai "Naega Neomu Apa" (, "I'm Really Hurt"), giữ vị trí thứ 2 trên Gaon tuần và thứ 35 trên Gaon năm với 40.695 bản đĩa được bán ra.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,9 @@
|
|||
Abu Ibrahim al-Hashimi al-Qurashi
|
||||
|
||||
Abu Ibrahim al-Hashimi al-Qurashi (Tiếng Ả Rập: أبو إبراهيم الهاشمي القرشي; phiên âm thay thế al-Qurayshi và al-Quraishi, sinh ngày 1 hoặc 5 tháng 10 năm 1976 - ngày 3 tháng 2 năm 2022) là thủ lĩnh thứ hai của Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant từ năm 2019 cho đến khi ông qua đời vào năm 2022.
|
||||
Vào tháng 1 năm 2020, truyền thông đưa tin danh tính thật của anh ta là Amir Mohammed Abdul Rahman al-Mawli al-Salbi (tiếng Ả Rập: أمير محمد عبد الرحمن المولى الصلبي). Truyền thông ISIL công bố việc bổ nhiệm ông vào hội đồng shura vào ngày 31 tháng 10 năm 2019, chưa đầy một tuần sau cái chết của Abu Bakr al-Baghdadi.
|
||||
Cho đến khi ông qua đời, Chương trình Phần thưởng cho Công lý của Hoa Kỳ đã đề nghị phần thưởng lên tới 10 triệu đô la cho thông tin đưa ông ra trước công lý.
|
||||
Vào ngày 3 tháng 2 năm 2022, một quan chức Hoa Kỳ đã báo cáo rằng al-Hashimi đã tự sát và các thành viên trong gia đình bằng cách kích hoạt một quả bom trong một cuộc đột kích của Quân đội Hoa Kỳ.
|
||||
Abu al-Hasan al-Hashimi al-Qurashi đã thay thế ông ta trở thành thủ lĩnh của ISIS.
|
||||
Vào ngày 10 tháng 3 năm 2022 ISIL đã chọn một thủ lĩnh mới sau khi ông bị tiệu diệt.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,24 @@
|
|||
ABU Robocon 2013
|
||||
|
||||
Robocon Đà Nẵng 2013 là cuộc thi Robocon lần thứ 12 của Hiệp hội Phát thanh Truyền hình châu Á-Thái Bình Dương diễn ra tại Đà Nẵng, Việt Nam vào ngày 18 tháng 8 năm 2013.
|
||||
Luật chơi.
|
||||
Thời gian thi đấu mỗi trận là 3 phút.
|
||||
Mỗi đội có 2 Robot: 01 Robot tự động và 01 robot điều khiển bằng tay. Robot bằng tay không được di chuyển vào vùng Trái Đất.
|
||||
Robot bằng tay lấy lá ở kho, đem gắn ở các chồi (Sprout) tại bán cầu Nam bên phần sân của đội mình; Robot bằng tay sẽ gắn 3 lá ở vùng bán cầu Nam.
|
||||
Tiếp theo, Robot bằng tay đi lấy lá ở kho chuyển cho Robot tự động. Robot tự động đi gắn tối thiểu 3 lá ở vùng bán cầu Bắc (bao gồm 2 lá ở phần sân đội mình và một lá ở vùng chung). Sau đó, Robot tự động mới được phép chạm vào mầm ở cực Bắc.
|
||||
Robot tự động đi lấy mầm (các đội tự làm mầm này) của đội mình đặt ở vùng cực Bắc chuyển cho Robot bằng tay.
|
||||
Robot bằng tay đứng dưới đường giới hạn 2 và bắn các mầm vào vùng Mặt Trăng. Nếu mầm của đội nào đứng trên vùng Mặt Trăng trước đội đó giành chiến thắng tuyệt đối.
|
||||
Mỗi đội có 4 thành viên (3 sinh viên và một chỉ đạo viên) thuộc cùng một trường. Tuy nhiên, chỉ có 2 sinh viên được phép vào sân thi đấu. Các thành viên phải là sinh viên của trường đại học, cao đẳng, hoặc trung học chuyên nghiệp trong thời gian diễn ra cuộc thi đấu quốc tế. Những người đã tốt nghiệp đại học không được phép tham dự.
|
||||
Trường hợp sinh viên của trường đại học hoặc cao đẳng tham gia cuộc thi trong nước mà đoạt giải trước khi tốt nghiệp thì vẫn được phép tham gia cuộc thi quốc tế.
|
||||
Các đội phải tự thiết kế, chế tạo robot điều khiển bằng tay và robot tự động để thi đấu. Mỗi đội chỉ được phép có 01 robot điều khiển bằng tay và 01 robot hoàn toàn tự động.
|
||||
Tất cả các Robot bằng tay và tự động kể cả nguồn nuôi, cấp, các bộ phận khác của Robot phải được cân trước khi thi đấu. Tổng trọng lượng của các Robot mỗi đội không được vượt quá 40 kg.
|
||||
Một đội ghi được điểm khi đặt thành công lá của đội mình vào điểm gắn lá (lá nằm gọn trong ô tròn).
|
||||
Điểm số.
|
||||
Gắn lá ở vùng Trái Đất: 10 điểm/lá
|
||||
Robot tự động lấy mầm đặt lên Robot bằng tay: 10 điểm/mầm
|
||||
Đội giành chiến thắng tuyệt đối khi bắn được mầm lên Mặt Trăng; mầm đứng trên mặt phẳng (tư thế nằm ngang không được chấp nhận). Chiến thắng này được gọi là Green Planet (Hành tinh xanh).
|
||||
Vòng đấu bảng.
|
||||
Chọn 7 đội nhất bảng + đội nhì bảng có thành tích tốt nhất vào vòng 2
|
||||
Tham khảo.
|
||||
Các trận thi đấu ABU Robocon 2013
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
AC0
|
||||
|
||||
AC0 là một lớp độ phức tạp trong độ phức tạp mạch. Nó là lớp nhỏ nhất trong cấp bậc AC, bao gồm tất cả các mạch có chiều sâu O(1) và kích thước đa thức, với cổng AND và cổng OR có fan-in (số dữ liệu vào) không giới hạn. (cổng NOT chỉ được sử dụng cho dữ liệu vào). Nó bao hàm lớp NC0 (chỉ cho phép cổng AND và OR với fan-in là hằng số).
|
||||
Năm 1984, Furst, Saxe, và Sipser chứng minh rằng không thể kiểm tra tính chẵn lẻ của dữ liệu vào bằng bất kì mạch AC0 nào.
|
||||
Do đó, AC0 không bằng NC1, do tồn tại một gia đình các mạch trong NC1 kiểm tra được tính chẵn lẻ.
|
||||
Năm 2008, Mark Braverman đã chứng minh các mạch trong AC0 không thể phân biệt được phân bố với độ độc lập đa thức của lôgarit của kích thước với phân bố ngẫu nhiên thực sự.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,7 @@
|
|||
Đặc cảnh tân nhân loại 2
|
||||
|
||||
Đặc cảnh tân nhân loại 2 (tiếng Trung: "特警新人類2", tiếng Anh: "Gen-Y Cops") là một bộ phim thuộc thể loại hành động - võ thuật xen lẫn với hài hình sự của Hồng Kông - Mỹ ra mắt năm 2000. Đây là phần phim thứ hai sau phần phim "Đặc cảnh tân nhân loại", do Trần Mộc Thắng làm đạo diễn kiêm đồng sản xuất, với sự góp mặt của các diễn viên gồm Trần Quán Hy, Phùng Đức Luân, Lý Xán Sâm, Tôn Quốc Hào, Maggie Q, Chung Lệ Đề, Nhan Dĩnh Tư, Mark Hicks và Paul Rudd.
|
||||
Phim khởi chiếu tại Hồng Kông từ ngày 14 tháng 12 năm 2000.
|
||||
Phát hành.
|
||||
Phim ra mắt tại Hồng Kông từ ngày 14 tháng 12 năm 2000. Tại Hoa Kỳ, phim được chiếu trên kênh Syfy vào ngày 23 tháng 2 năm 2002. Sau buổi công chiếu, phim thu về $11.9 triệu trên Hồng Kông và trên toàn cầu.
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,17 @@
|
|||
Ác quỷ đối đầu
|
||||
|
||||
Ác quỷ đối đầu (tên gốc tiếng Hàn: 다만 악에서 구하소서, còn được biết đến với tên tiếng Anh: Deliver Us from Evil) là một bộ phim hành động của Hàn Quốc do đạo diễn Hong Won-chan thực hiện cùng với Hive Media Corp. sản xuất. Phim có sự tham gia của các diễn viên nổi tiếng như Park Jung-min, Hwang Jung-min, Lee Jung-jae và Choi Hee-seo. Phim theo chân một cựu đặc vụ NIS trên hành trình giải cứu con gái mình khỏi một đường dây buôn bán nội tạng Thái Lan.
|
||||
Phim bắt đầu công chiếu tại các rạp Hàn Quốc vào ngày 5 tháng 8 năm 2020 và tại Việt Nam vào ngày 4 tháng 9 năm 2020. Tác phẩm là một thành công về mặt thương mại. Bản cắt cuối cùng với các cảnh quay bổ sung được công chiếu vào ngày 28 tháng 10 năm 2020. Bộ phim được phát hành tại Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 2021.
|
||||
Nội dung.
|
||||
8 năm trước In-nam và sếp của anh là Kim Chun-sung – người đang làm đặc vụ của bộ phận bí mật phụ trách các vấn đề phi đạo đức trong đó bao gồm việc giết người tại Cục Tình báo Quốc gia (NIS). Sau đó nhóm này đã bị giải tán, vì vậy họ buộc phải trốn ra nước ngoài. In-nam cảm thấy cuộc sống ở Hàn Quốc đã kết thúc, anh đi gặp người yêu của mình là Young-joo. Anh chia tay cô và trốn sang Nhật Bản. Lúc này, Young-joo vướng vào một cuộc chiến với các đặc vụ đến để tiêu diệt In-nam, cô bị sốc trước cảnh tượng này. Với sự giúp đỡ của Kim Chun-sung, cô rời Hàn Quốc và định cư ở Thái Lan nhưng cô không thông báo cho In-nam biết rằng mình đang mang thai. Sau đó, In-nam kiếm tiền bằng cách làm sát thủ ở Nhật Bản, nhưng anh đã mệt mỏi và muốn giải nghệ. Anh nói với người đại diện của mình là Shimada rằng anh ta sẽ đi Panama sau khi làm phi vụ cuối cùng đó là giết em trai của Ray. Trong khi đó, Young-joo có một cuộc sống tương đối thoải mái với con gái của mình ở Thái Lan. Cô nhận được đề xuất đầu tư vào sân gôn từ Han Jong-soo. Han Jong-soo đã thuê người giúp việc đến trường mẫu giáo Quốc tế để bắt cóc con gái của Young-joo. Cô đã cố gắng nhờ cảnh sát Thái Lan và đại sứ quán giúp đỡ tuy nhiên cảnh sát lại tỏ thái độ thờ ơ trước vụ án.
|
||||
Young-joo tuyệt vọng và cố gắng cầu cứu In-nam thông qua Chun-sung, nhưng anh đã tránh liên lạc với cô bằng cách nói rằng anh đã chết. Tuy nhiên, sau khi Young-joo bị sát hại, đại sứ quán đã tìm thấy thông tin liên lạc với In-nam và gọi để báo đến In-nam để nhận xác. Vì vậy In-nam đã đến Incheon. Khi ở Incheon In-nam đã nhận được cảnh báo về việc Ray đang truy lùng anh. Ngay sau đó Shimada bị Ray bắt, anh ta bị treo ngược và chết khi bị Ray rạch bụng. Trước khi Shimada chết, anh ta đã khai rằng In-nam đang ở Incheon và Kim Chun-sung cũng bị giết bởi Ray sau khi In-nam đi đến Thái Lan để tìm con gái mình. Sau khi phát hiện ra bức ảnh của Young-joo và con gái của anh trong ví, In-nam đến Bangkok và kết nối với Kim Chun-sung trước khi anh qua đời. Khi hiểu được tình hình địa phương ở Bangkok, anh biết rằng những kẻ tội phạm đã giết Young-joo là những kẻ lừa đảo bất động sản – Han Jong-soo và những người khác. In-nam bắt Han Jong-soo nói ra thông tin về con anh và nơi ở của những kẻ bắt cóc. Những kẻ bắt cóc sau đã khai rằng đã bán con của anh cho một tổ chức tội phạm có tên Chafer và người đứng đầu tên là Lan. In-nam đi tìm con mình thông qua Young-bae, sau đó anh nhận được sự giúp đỡ Yui – một người chuyển giới đến từ Hàn Quốc, người này vẫn chưa được phẫu thuật vì thiếu tiền nên đã nhận lời giúp đỡ In-nam.
|
||||
Ray đã đuổi theo In-nam đến Thái Lan. Hắn ta đến đây với sự giúp đỡ của một băng đảng Thái Lan do người của hắn ở Nhật Bản liên hệ. Những tên này được trả tiền để giúp đỡ Ray trong việc truy tìm In-nam. Tuy nhiên, băng nhóm này đã lừa Ray bằng cách nói dối rằng họ đã bắt được kẻ bắt cóc con gái In-nam, sau đó nhóm này muốn ăn chặn tiền bằng cách giết Ray nhưng cả băng nhóm đã chết ngược dưới tay Ray. Chỉ có một thành viên băng đảng còn sống sót giúp đỡ Ray sau khi người này cầu xin hắn tha mạng. In-nam cùng với Yui đi đến nơi ở của tổ chức Chafer, nơi những đứa trẻ buôn người bị bắt cóc. Thông qua lời giải thích của Yui, anh ta nói với các thành viên băng đảng Chaofer rằng anh muốn mua thận của 1 đứa trẻ Hàn Quốc nhưng anh nhận được thông tin rằng con gái anh đã bị đưa đi để phẫu thuật lấy nội tạng. Vì muốn cứu con mình nên In-nam đã đề nghị trả thêm tiền, người phụ nữ ở đó bảo cả hai hãy chờ đợi. In-nam vì nóng vội đã phá cửa phòng nhốt bọn trẻ và hỏi bọn trẻ đang rằng có biết con của mình ở đâu không, tất cả những đứa trẻ khác đều cảnh giác với anh, nhưng có 1 trong những cậu bé bước lên và nói với anh rằng mình biết về con gái của anh. Cậu bé nói rằng cậu được chơi bóng ở nơi bí mật, ở đó có một nhà máy sản xuất bóng đá là nhà máy của tổ chức, nơi phẫu thuật được thực hiện.
|
||||
Đột nhiên, Ray giết các thành viên băng đảng Chafer trước sự chứng kiến của In-nam khi anh đang chuẩn bị đi đến Langyao với Yui. In-nam để Yui và cậu bé đi trước, sau đó anh có 1 cuộc giao tranh dữ dội với Ray trong tòa nhà. Theo lời của In-nam, Yui chạy ra ngoài với một đứa trẻ biết nhưng bị cảnh sát bắt, và In-nam cũng chạy thoát khỏi Ray. Sau đó In-nam được Young-bae giúp tìm Langyao, anh được đưa một khẩu súng và biết rằng Ray đã có điện thoại di động của Chun-sung nên đã gọi điện trực tiếp cho anh ta. Trong cuộc điện thoại, Ray nói rằng sẽ giết tất cả những ai có liên hệ với In-nam. Lúc đầu khi Yui bị cảnh sát bắt, cô đã yêu cầu gọi điện đến đại sứ quán để giả vờ rằng mình không nói tiếng Thái và không trả lời các câu hỏi của cảnh sát. Cô được trả tự do sau khi cung cấp thông tin về tổ chức tội phạm. Cảnh sát Thái Lan sau đó quyết định điều động đội SWAT dựa trên tình hình thực tế rằng đối thủ là một người rất nguy hiểm. Các cảnh sát đã theo dõi và khi In-nam đến Langyao anh bị Ray truy đuổi. Ray xuất hiện với một khẩu súng và cố gắng giết In-nam, trong khi cảnh sát địa phương và SWAT xuất hiện và tấn công Ray. In-nam đã trốn thoát và giải cứu được con gái của mình khi đang sắp bị lấy nội tạng ở phòng phẫu thuật. Ray đấu súng với đội SWAT, sau đó hắn cũng đã trốn thoát.
|
||||
In-nam nói dối con gái anh rằng anh là bạn thân với mẹ cô. Sau khi liên hệ với Yeong-bae để đi đến Panama bằng đường buôn lậu, anh ở khách sạn do kẻ môi giới buôn lậu gợi ý. Trong khi đó, Ray đeo lựu đạn khắp người đến gặp Lan, Lan sau đó quyết định hợp tác với Ray. In-nam đi đến khách sạn và gọi bác sĩ nhi khoa để kiểm tra sức khỏe của con gái mình. Khi In-nam quay lại khách sạn sau cuộc gặp với những kẻ buôn lậu, những thành viên của tổ chức Lan đã chờ sẵn ở đó. Anh đã hạ tất cả và đi lên phòng gặp con gái mình, tuy nhiên những thành viên của tổ chức Lan và Ray đã chờ sẵn ở đó. Sau khi In-nam bị đánh gục Ray đã giết tất cả thành viên của tổ chức Lan ngoại trừ 2 người làm thuê và yêu cầu 2 người này mang In-nam đi. Ray cho biết tự tay mình sẽ giết In-nam. Khi Yui đang ở bãi đậu xe của khách sạn và nhìn thấy In-nam bị bắt cóc, cô đã tự mình lái xe đến giải cứu bằng cách tông vào xe của 2 kẻ làm thuê. Sau khi được Yui giải cứu, In-nam đã đuổi theo xe của Ray. Anh chặn đầu xe qua một con đường tắt, dùng súng bắn vào kính chắn gió và nhảy vào chiếc xe đang lao tới. Vì In-nam bị thương nặng nên đã bị Ray đẩy ra, sau đó anh ném lựu đạn từ trong xe ra ngoài khiến cả hai bị thương nặng. Trong lúc đó, In-nam đưa con gái mình ra khỏi vali và đưa cho Yui. Ray đã dùng một con dao đâm liên tiếp vào người In-nam, In-nam liếc nhìn con gái cho đến khi anh khuất tầm nhìn. Sau đó anh thả ra một quả lựu đạn đã được tháo chốt an toàn, cả In-nam và Ray đều chết ngay sau đó.
|
||||
Yui đến một nhà ga lấy ra một chiếc túi từ tủ khóa, trong đó chứa một lượng lớn tiền đô la, hộ chiếu của In-nam để lại. Anh đã để lại một tin nhắn thoại cho Yui và nói rằng anh ấy sẽ để lại những hành lý này để cô đi cùng con gái của anh ấy. Yui và con gái của In-nam đến một ngôi nhà sang trọng ở Panama mà In-nam đã chuẩn bị trước, họ vui chơi trên bãi biển và bắt đầu cuộc sống mới ở Panama.
|
||||
Sản xuất.
|
||||
Phim dưới sự chỉ đạo của đạo diễn của Hong Won-chan, được sản xuất bởi Hive Media Corp. từ ngày 23 tháng 9 năm 2019 và hoàn thành vào ngày 23 tháng 1 năm 2020 tại 3 quốc gia Thái Lan, Hàn Quốc và Nhật Bản.
|
||||
Đón nhận.
|
||||
Doanh thu phòng vé.
|
||||
"Ác quỷ đối đầu" thu về 14,9 triệu USD trong 5 ngày đầu tiên công chiếu tại Hàn Quốc. Tác phẩm đã vượt mốc 1,5 triệu vé bán ra sau bốn ngày phát hành và vượt mốc 2 triệu vé sau dịp cuối tuần đầu tiên ra mắt. Vào ngày thứ tám ra mắt, bộ phim đã vượt mốc 2,5 triệu lượt người xem. Sau chưa đầy một tháng ra mắt, bộ phim đã vượt mốc 4 triệu lượt xem, trở thành phim điện ảnh thứ hai trong năm làm được điều này sau "The Man Standing Next".
|
||||
|
||||
|
|
@ -0,0 +1,6 @@
|
|||
Acacia caerulescens
|
||||
|
||||
Acacia caerulescens là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được Maslin & Court miêu tả khoa học đầu tiên. Đây là một loài cây đặc hữu ở miền đông nam Australia
|
||||
Cây phát triển chiều cao từ 10 đến 15 m và có cây hình chóp với những cành nhỏ lấp lánh có lớp phủ phấn trắng mịn. Loài này được mô tả chính thức vào năm 1989 dựa trên nguyên liệu thực vật được thu thập gần Buchan ở Gippsland.
|
||||
Loài này có phạm vi phân bố hạn chế ở Victoria, nơi nó chỉ được tìm thấy ở khu vực các hồ Eternace và Buchan. Loài này được tìm thấy như là quần thể còn sót lại chủ yếu trong đất sét trên đá vôi như là một phần của cộng đồng rừng bạch đàn. Môi trường sống tự nhiên của nó đang bị đe dọa nạn phát quang.
|
||||
|
||||
Some files were not shown because too many files have changed in this diff Show More
Loading…
Reference in New Issue