Namaceae Namaceae là một họ thực vật có hoa trong bộ Boraginales, từng được coi như là một phần (Nameae) của phân họ Hydrophylloideae trong họ Boraginaceae nghĩa rộng hoặc một phần (Namoideae) của họ Hydrophyllaceae. Theo truyền thống, và trong hệ thống Cronquist thì Hydrophyllaceae được coi như là một phần của bộ Cà (Solanales). Các hệ thống phân loại gần đây công nhận mối quan hệ họ hàng gần của Hydrophyllaceae (gồm cả Namoideae) với họ Mồ hôi (Boraginaceae), ban đầu đặt Hydrophyllaceae và Boraginaceae nghĩa hẹp cùng nhau trong bộ Boraginales, nhưng sau đó người ta giáng cấp Hydrophyllaceae xuống thành phân họ Hydrophylloideae trong họ Boraginaceae, như trong hệ thống APG III năm 2009 (không đặt trong bộ nào) và hệ thống APG IV năm 2016 (trong bộ Boraginales). Tuy nhiên hiện tại website của APG Group lại công nhận Namaceae và Hydrophyllaceae như là các họ tách biệt trong bộ Boraginales. Lịch sử phân loại. Chi "Nama" được A. L. de Jussieu (1789) gộp cùng chi "Hydrolea" trong "ordo Convolvuli" (= Convolvulaceae). Năm 1818 Robert Brown tách "Nama" và "Hydrolea" ra để lập nhóm mới gọi là "Hydroleae" do cho rằng chúng có quan hệ gần với Polemoniaceae hơn là với Convolvulaceae. Dumortier (1829) công nhận họ Hydroleaceae gồm "Hydrolea", "Nama" và "Wigandia". Asa Gray (1875) gộp Hydroleaceae vào họ Hydrophyllaceae (gồm "Hydrophyllum", "Phacelia", "Nemophila" và "Ellisia") và họ Hydrophyllaceae được duy trì cho tới gần đây. Dựa theo các nghiên cứu phát sinh chủng loài thì "Hydrolea" lại bị tách khỏi Hydrophyllaceae và tạo thành một họ đơn chi trong bộ Solanales.<ref>Soltis D. E., Soltis P. S., Chase M. W., Mort M. E., Albach D. C., Zanis M., Savolainen V., Hahn W. H., Hoot S. B., Fay M. F., Axtell M., Swensen S. M., Prince L. M., Kress W. J., Nixon K. C. & Farris J. S., 2000. Angiosperm phylogeny inferred from 18S rDNA, "rbcL", and "atpB" sequences. "Bot. J. Linn. Soc." 133(4): 381– 461.